Ai là người thân cận của tôi ?
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
25 Khi ấy, có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” 26 Người đáp: “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” 27 Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28 Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”
29 Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” 30 Đức Giê-su đáp: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới chỗ nạn nhân, thấy vậy thì động lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu xức vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” 37 Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”
=====================
Suy niệm 1: NGƯỜI THÂN CẬN
(THỨ HAI TUẦN 27 TN NĂM LẺ)
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 27 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin Chúa rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng ta, và thương ban những ơn trọng đại lòng chúng ta chẳng dám mơ tưởng bao giờ.
Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, qua Đấng Trung Gian duy nhất, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa. Sống giữa lòng thế giới, Hội Thánh có sứ mạng cầu nguyện không ngừng nhờ Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu Kitô… Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, đó là một con người: Đức Giêsu Kitô. Người đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Bởi thế Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một Vị Thượng Tế nhân từ.
Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, cho toàn thể Hội Thánh, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích khảo luận của thánh Amrôxiô: Phải cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh… Lạy Chúa Trời, xin nghe tiếng kêu van, và lưu ý đến lời con thỉnh nguyện. Từ cùng cõi địa cầu, con kêu lên Chúa. Vâng chính Ngài, lạy Thiên Chúa, đã nghe lời khấn nguyện của con, lại cho con thừa hưởng cơ nghiệp dành cho ai kính sợ danh Ngài.
Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, qua những người Chúa chọn, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Giôna: Ông Giôna đứng dậy để tránh nhan Đức Chúa. Trong bài Đáp Ca, ngôn sứ Giôna cầu xin: Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống. Từ cảnh ngặt nghèo, tôi kêu lên Đức Chúa, Người đã thương đáp lời. Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu, Ngài đã nghe tiếng con.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Trong bài Tin Mừng, người thông luật hỏi: Ai là người thân cận của tôi? Điều răn mới, mới ở chỗ là: những người “thân cận”, không chỉ là những người gần gũi, mà là, hết tất cả mọi người; mới ở chỗ là: không chỉ dừng lại ở khía cạnh công bình, mà là, đến độ hy sinh tính mạng vì người mình yêu: Giôna bị ném xuống biển, để cứu những người trong tàu, và sau ba ngày trong bụng kình ngư, ông đã cứu được dân thành Ninivê; Đức Giêsu tự nguyện chịu ném xuống biển trần gian, và sau ba ngày trong mộ đá, Người đã cứu toàn thể nhân loại. Để sống được điều răn mới, chúng ta phải cậy nhờ Vị Trung Gian của Giao Ước Mới: Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Người đã trở nên “người thân cận” của chúng ta, đã nên giống chúng ta về mọi phương diện, để trở thành một Vị Thượng Tế nhân từ. Người đã dạy ta về lòng nhân hậu của Chúa Cha, Đấng hằng ban những điều thiện hảo, để ta biết xin Đấng nhân hậu ban cho ta những điều thiện hảo. Người khuyên ta càng xin ơn tha thứ cho mình, thì càng phải biết quảng đại tha thứ cho người khác. Chúng ta được dạy phải cầu nguyện cho toàn thân thể, cho mọi chi thể của Hội Thánh. Nếu ta chỉ xin cho chính mình, thì, ta sẽ chỉ xin cho bản thân thôi; còn nếu ta xin cho mọi người, thì, mọi người sẽ xin cho ta, vì ta ở trong mọi người. Như vậy, các việc lành phúc đức của toàn dân Chúa sẽ tăng thêm hiệu lực, nhờ từng lời cầu nguyện của mỗi người. Cách cầu nguyện đó không những không kiêu căng, mà còn, khiêm nhường, và mang lại hoa trái dồi dào hơn. Tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, ước gì Chúa rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng ta, và thương ban những ơn trọng đại lòng chúng ta chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Ước gì được như thế!
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
======================
Suy niệm 2: LỜI MỜI GỌI YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA YÊU
Hôm nay, trong ngày lễ kính Thánh Bruno, linh mục và là người sáng lập Dòng Carthage, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm và sống theo những lời dạy của Chúa Giêsu về tình yêu thương, qua câu chuyện về người Samaritanô nhân hậu. Câu chuyện này không chỉ là một bài học về lòng bác ái, mà còn là lời mời gọi mỗi người chúng ta sống theo tinh thần của Tin Mừng: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em.
Lời Chúa hôm nay bắt đầu với một câu hỏi của một người thông luật, người muốn thử thách Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Đây là một câu hỏi rất quan trọng, vì nó phản ánh khao khát sâu thẳm trong lòng con người: làm thế nào để đạt được sự sống vĩnh cửu, làm thế nào để sống một cuộc sống có ý nghĩa và đúng đắn trong mắt Thiên Chúa. Câu hỏi này không chỉ dành riêng cho người thông luật vào thời Chúa Giêsu, mà còn là câu hỏi mà mỗi chúng ta đều phải tự vấn trong cuộc sống hôm nay: làm thế nào để sống xứng đáng với tình yêu Thiên Chúa và đạt được sự sống đời đời?
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi đó bằng một lời dạy trừu tượng, mà Ngài đặt câu hỏi ngược lại: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ngài muốn người thông luật nhớ lại chính những lời dạy trong Lề luật mà ông ta đã học. Và người thông luật đáp lại: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình." Đây là hai điều răn chính yếu mà Thiên Chúa đã ban cho dân Israel qua Lề luật, và cũng là nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Lòng yêu mến Thiên Chúa và tình yêu thương anh em là hai điều không thể tách rời; chúng hỗ trợ và bổ sung cho nhau trong đời sống đức tin của chúng ta.
Chúa Giêsu xác nhận rằng, "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống." Nhưng người thông luật, có lẽ vì muốn bào chữa cho bản thân, đã tiếp tục hỏi: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Đây là câu hỏi quan trọng, vì nó mở ra một chủ đề quan trọng trong đời sống Kitô hữu: ai là người tôi phải yêu thương? Và yêu thương thế nào?
Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi này theo cách mà người thông luật mong đợi. Thay vào đó, Ngài kể một dụ ngôn nổi tiếng về người Samaritanô nhân hậu. Dụ ngôn này không chỉ đơn giản là câu chuyện về lòng thương xót, mà còn là lời dạy sâu sắc về cách mà chúng ta phải sống tình yêu thương trong thực tế. Trong dụ ngôn, một người bị cướp bóc và đánh đập, bỏ mặc bên đường nửa sống nửa chết. Dù vậy, hai người, một tư tế và một trợ tế, đều đi ngang qua mà không giúp đỡ. Tuy nhiên, một người xứ Samaria, người vốn bị coi thường và ghét bỏ bởi dân Do Thái, lại động lòng thương xót và giúp đỡ người bị thương. Ngài băng bó vết thương, chăm sóc, đưa người ấy đến quán trọ và sẵn sàng trả thêm tiền để người ấy được săn sóc. Chúa Giêsu kết luận câu chuyện với câu hỏi: "Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật đáp: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy."
Lòng thương xót mà Chúa Giêsu dạy trong dụ ngôn này không phải là một lòng thương xót dễ dàng. Đây là lòng thương xót đòi hỏi chúng ta phải vượt qua sự phân biệt, sự kỳ thị, và những giới hạn mà xã hội đặt ra. Người Samaritanô trong dụ ngôn là người đã dám vượt qua những rào cản văn hóa và sắc tộc, để cứu giúp một người bị thương mà chẳng hề nghĩ đến sự phân biệt giữa hai dân tộc. Lòng thương xót mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hành không phải là lòng thương xót có điều kiện, mà là tình yêu thương không biên giới, yêu thương tất cả mọi người, bất kể họ là ai, đến từ đâu hay thuộc về nhóm nào.
Chúng ta cũng phải hiểu rằng, trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi chúng ta giúp đỡ những người gặp khó khăn, mà còn yêu cầu chúng ta làm điều đó với một trái tim đầy lòng nhân ái và không phân biệt. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống tình yêu thương trong những hành động cụ thể và thiết thực. Làm sao để tình yêu không chỉ là những lời nói suông, mà là những hành động thực tế, như việc người Samaritanô đã làm: ông không chỉ cảm thấy thương xót mà còn ra tay giúp đỡ ngay lập tức, không đắn đo.
Khi Thánh Bruno sống trong đời sống của mình, ngài cũng đã thực hành sự hy sinh và yêu thương bằng cách sống một cuộc đời thinh lặng, cầu nguyện, và phục vụ. Là một linh mục, ngài đã không tìm kiếm vinh quang cho bản thân mà luôn hướng về Chúa và phục vụ tha nhân trong sự khiêm nhường. Ngài đã đi theo con đường mà Chúa Giêsu dạy, con đường của sự hy sinh và yêu thương, con đường của sự phục vụ âm thầm nhưng đầy sức mạnh.
Vậy, trong cuộc sống hôm nay, chúng ta, mỗi người Kitô hữu, cũng được mời gọi sống theo gương của người Samaritanô nhân hậu và Thánh Bruno. Chúng ta không chỉ yêu thương bằng lời nói, mà còn phải thể hiện tình yêu đó qua hành động. Chúng ta không chỉ yêu thương những người gần gũi với mình, mà phải mở rộng trái tim để yêu thương tất cả mọi người, dù họ có thể là người xa lạ, hay ngay cả những người mà xã hội thường không chấp nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống tình yêu thương như Chúa đã dạy, không chỉ trong lời nói mà trong những hành động cụ thể. Xin giúp chúng con biết hy sinh và phục vụ những người xung quanh, đặc biệt là những người nghèo khó, đau khổ và bị bỏ rơi. Giống như Thánh Bruno, xin cho chúng con biết tìm kiếm Nước Trời qua việc cầu nguyện, hy sinh và yêu thương tha nhân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
======================
Suy niệm 3: LÒNG NHÂN HẬU (Lc 10,25-37)
“Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.”
Kính thưa cộng đoàn,
Có người thông luật hỏi Chúa Giê-su về việc phải làm sao để được sự sống đời đời. Thiên Chúa ban cho con người sự sống đời đời từ khi thực hiện công trình sáng tạo. Kể cả sau khi Tổ tông phạm tội, Thiên Chúa vẫn tỏ lòng nhân hậu và quan phòng gìn giữ. Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu khi sai các ngôn sứ đến kêu gọi con người trở về. Trong lịch sử, nhiều lần nhân loại không sống theo đường lối Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Hơn hết, Thiên Chúa sai Con Một xuống thế cứu độ và dẫn đưa con người đến sự sống đời đời.
Hôm nay, Chúa Giê-su chỉ ra con đường dẫn đến sự sống, đó là biết thương xót anh chị em. Người thông luật biết và thực thi điều răn trọng nhất ‘Mến Chúa yêu người’. Ông muốn biết phải ‘yêu người’ cụ thể như thế nào. Ông đã hỏi Chúa Giê-su: “Ai là người thân cận của tôi?” Chúa Giê-su kể dụ ngôn người Sa-ma-ri-a nhân hậu. Người đưa ra trường hợp một người gặp nạn. Có ba người thấy nạn nhân. Nhưng chỉ có người Sa-ma-ri-a giúp đỡ. Hai người kia lấy lý do để khước từ cứu giúp nạn nhân. Dù lấy lý do nào đi chăng nữa, hai người kia không tỏ lòng nhân hậu với tha nhân. Như vậy, Chúa Giê-su dạy cho người thông luật biết ai là người thân cận của ông.
Chúng ta cũng cần suy nghĩ về câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”. Có phải là lúc vui thì họ đến chúc mừng? Có phải lúc giàu sang họ đến nhờ cậy? Có phải lúc danh giá họ đến ca tụng? Đến khi gặp khó khăn, họ lại từ chối và xa lánh. Như thế, người thân cận là người luôn ở bên ta lúc vui cũng như buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Trong cuộc sống, Thiên Chúa luôn bên ta trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa cũng quan phòng có những người đồng hành với ta cho đến khi trở về với Ngài. Đến lượt ta, ta cũng phải tỏ lòng nhân hậu với anh chị em.
Một hôm, Thầy Antôn dẫn Thầy Amôna ra khỏi chòi tu và chỉ vào tảng đá giữa hoang địa mà nói:
- Thầy hãy mắng tảng đá và đập cho nó đi.
Thầy Amôna làm theo. Lúc đó Thầy Antôn hỏi:
- Tảng đá có nói gì không ?
Thầy Amôna đáp là không.
Thầy Antôn nói: - Thầy cũng vậy, thầy sẽ đạt tới mức độ này.
Điều đó xảy ra thật như thế. Thầy Amôna càng tiến bộ, lòng nhân hậu của Thầy càng tăng trưởng tới mức thầy không biết tới sự ác độc, dữ dằn là gì nữa. Về sau, khi thầy lên chức Giám Mục, một lần các tu sĩ trong miền dẫn tới Đức Giám Mục một thiếu nữ mang bầu và Ngài ra hình phạt. Nhưng Đức Cha đã vẽ hình thánh giá lên bụng cô gái, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm ra bằng lanh mịn và nói: - Sợ rằng khi cô ta sanh con, cô ta hay đứa con có thể chết, mà không có gì tẩm liệm chăng ?
Nhưng những kẻ tố cáo lại nói: - Tại sao Đức Cha làm như thế ? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo: - Xin anh em coi, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi còn phải làm gì hơn nữa ?
Nói thế rồi Ngài cho cô ta về. Từ đấy, không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Lạy Chúa, xin cho con biết đối xử thân tình với hết thảy mọi người. A-men
Jos. Nguyễn
=====================
Suy niệm 4: KHÔNG THỂ TRỐN CHẠY
“Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy!”.
“Chỉ tìm kiếm các thú vui hoặc thu tích của cải đều là ‘những nỗ lực hoài hơi’ nhằm chạy trốn những nỗi đau dai dẳng! Triệu phú cô đơn hơn người nghèo; vua hài bất hạnh hơn khán giả! Bạn không thể trốn chạy cô đơn, nếu không biết yêu thương!” - J. O. Sanders.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay chứng thực nhận định của J. O. Sanders. Đó là câu chuyện dài của Giôna, cùng lúc, câu chuyện ngắn của người Samaritanô. Điều thú vị là dù vùng vằng hay mau mắn, hai nhân vật này vẫn ‘không thể trốn chạy’ yêu thương!
Chuyện dài của Giôna mở đầu với việc Chúa sai ông đi Ninivê, một thành tội lỗi, “Hô cho dân thành biết sự gian ác của chúng”. Giôna bất tuân lệnh Chúa! Thay vì lên Ninivê, hướng đông; ông xuống tàu qua Tarshish, hướng tây. Chúa không để yên, Ngài theo ông đến cùng! Người ta ném Giôna xuống biển; một con cá chực sẵn, nuốt ông, nhả lên bờ. Chúa gọi ông lần hai! Cuối cùng, vì ‘không thể trốn chạy’ và cô đơn mãi, Giôna đến Ninivê, mang thông điệp sám hối; họ ăn năn và được thứ tha. “Bạn có thể né tránh bổn phận trong một thời gian, nhưng bạn không thể thoát khỏi nó mãi mãi!” - Dwight L. Moody.
Nếu Giôna chạy trốn Chúa để khỏi yêu thương kẻ xấu, thì người Samaritanô đã nghe ‘tiếng Trời’ mà phục vụ kẻ thù - một người Do Thái hấp hối bên đường. Nếu Giôna là sứ giả ‘bất đắc dĩ’ cho Ninivê, thì người này là sứ giả ‘tình nguyện’ cho ‘quân cắt bì’. Dụ ngôn này là câu trả lời của Chúa Giêsu cho chất vấn của một luật sĩ, “Ai là người thân cận của tôi?”. Và để kết thúc, Ngài nói với ông, “Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy!”.
Chính Chúa Giêsu đã đi và làm như vậy! Người Samaritanô, một ngoại giáo đại diện cho Ngài; và nạn nhân, đại diện cho cả nhân loại, trong đó có chúng ta. Khi con người - trầy trụa, ghẻ lạnh vì tội lỗi - không thể tự cứu, Con Thiên Chúa đã bỏ trời xuống thế để cứu nó. Chúng ta ‘sống dở, chết dở’ hay đã ‘chết một nửa’ khi lửa trong tim đã tắt, lây lất ‘sống qua ngày, đợi qua đời’ lúc không còn một chút nhiệt huyết cho bất cứ điều gì; thì chính trong tình trạng đó, Chúa Giêsu vực chúng ta lên, đưa chúng ta ra khỏi huyệt. Thật thâm trầm, “Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy!”. Điểm chung của Giôna, người Samaritanô và chính Chúa Giêsu, là không thể mãi quay lưng trước tiếng gọi của tình yêu. Một người thì vùng vằng, một người thì mau mắn, và ‘Một Người’ thì hiến thân trọn vẹn. Nhưng cuối cùng, tất cả đều cho thấy: ‘không thể trốn chạy’ cô đơn, trừ khi chúng ta cúi xuống với tha nhân! Không ai có thể trốn chạy khỏi ơn gọi yêu thương, bởi đó là con đường duy nhất dẫn đến tự do và niềm vui đích thực. Vậy, thay vì tránh né, bạn và tôi được mời gọi dấn thân - để yêu thương, tha thứ, và phục vụ - vì ở đó, Chúa Giêsu đang chờ mỗi người!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, bao lần con cô đơn khi trốn chạy. Dạy con ‘cúi xuống’, ‘cùng đau’, ‘cùng xót’ để làm một điều gì đó cho anh chị em con; nhờ vậy, con có thể hạnh phúc hơn mỗi ngày!”, Amen.