Tin mừng: Lc 7,11-17
Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy !
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
11 Khi ấy, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. 12 Đức Giê-su đến gần cửa thành, đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa !” 14 Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy !” 15 Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. 17 Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.
============
Suy niệm 1: HÃY TRỖI DẬY
(THỨ BA - THÁNH CONÊLIÔ & SÍPRIANÔ)
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Conêliô và Síprianô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban cho dân Chúa hai vị mục tử nhiệt thành và cũng là chứng nhân bất khuất là thánh Conêliô và thánh Síprianô. Xin Chúa nhậm lời hai thánh chuyển cầu mà ban cho chúng ta can trường giữ vững đức tin, và không ngừng hoạt động cho Giáo Hội được hợp nhất.
Can trường giữ vững đức tin, quyết không thờ ngẫu tượng, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Kết án Giêrusalem tội lỗi. Lòng tin tưởng người dân Giuđa đặt vào Đền Thờ là một thứ mê tín. Êdêkien khám phá ra rằng vào thời gian trước lưu đày, Đền Thờ chỉ còn là hang ổ thờ ngẫu tượng. Danh dự của Thiên Chúa không cho phép ông dửng dưng. Ông ghê tởm và giận dữ, nhưng khoan dung với các tín hữu… Khi anh em thấy Đồ Ghê Tởm Khốc Hại được đặt trong nơi thánh, khi ấy sẽ có cơn khốn khổ lớn lao. Nếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát, nhưng vì những kẻ đã được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn lại. Xin đừng phá hại đất liền và biển cả, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta.
Can trường giữ vững đức tin, chiến đấu bằng sức mạnh của Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Síprianô: Việc chính đáng như thế, khỏi cần phải suy nghĩ… Khi chúng ta lâm trận và chiến đấu cho đức tin, có Thiên Chúa chứng giám, có các thiên sứ của Người chứng giám, và cả Đức Kitô cũng chứng giám nữa. Ôi vinh hiển dường bao, hạnh phúc biết chừng nào, khi xông vào cuộc chiến mà có Thiên Chúa hiện diện, có Đức Kitô làm trọng tài và đội triều thiên cho người chiến thắng. Ta hãy vũ trang cho đầy đủ, và sẵn sàng lâm chiến: tinh thần phải vững mạnh, đức tin phải nguyên tuyền, và đức ái nồng nàn mãnh liệt.
Can trường giữ vững đức tin, bảo toàn đức tin tinh tuyền, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Giám quản phải là người không ai chê trách được; các trợ tá cũng vậy, phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 100 cho thấy: Con sẽ sống theo lòng thuần khiết. Lạy Chúa, con xin ca ngợi tình thương và công lý: con đàn hát kính Ngài. Con nguyện chủ tâm theo đường hoàn hảo, bao giờ Ngài mới đến cùng con?
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người, Người đã đi vào lãnh địa của kẻ chết, để hồi sinh kẻ chết. Vị Ngôn Sứ Vĩ Đại đã xuất hiện, ai tin vào Người, thì sẽ được sống. Như thánh Conêliô và thánh Síprianô, chúng ta hãy vũ trang cho đầy đủ, và sẵn sàng lâm chiến: tinh thần phải vững mạnh, đức tin phải nguyên tuyền, và đức ái nồng nàn mãnh liệt. Ôi vinh hiển dường bao, hạnh phúc biết chừng nào, khi xông vào cuộc chiến mà có Thiên Chúa hiện diện, có Đức Kitô làm trọng tài và đội triều thiên cho người chiến thắng. Chúng ta hãy ca ngợi tình thương và công lý của Thiên Chúa chúng ta, nguyện chủ tâm theo đường hoàn hảo, sống theo lòng thuần khiết, và việc xấu xa đê tiện, chẳng để mắt trông. Tình thương Chúa quý trọng biết bao, chúng ta hãy tìm bóng Người trú ẩn. Chúa đã ban cho dân Chúa hai vị mục tử nhiệt thành và cũng là chứng nhân bất khuất là thánh Conêliô và thánh Síprianô. Ước gì chúng ta biết can trường giữ vững đức tin, và không ngừng hoạt động cho Giáo Hội được hợp nhất. Ước gì được như thế!
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
============
Suy niệm 2: XÓT THƯƠNG RÒNG
“Hãy trỗi dậy!”.
“Lạy Chúa, sau bao trận chiến, con không tìm thấy gì ngoài sự phù phiếm và hư đốn. Con bối rối, đau đớn chống lại ước muốn nên thánh của con. Nó khóc nức nở vì sự hư hỏng của con và nó sẽ chỉ tựa nương vào lòng xót thương ròng của Chúa, điều mà Ngài đã hứa với mọi tội nhân ăn năn mà con là một trong số đó!” - Nhật ký một tu sĩ.
Kính thưa Anh Chị em,
“Chỉ tựa nương vào lòng ‘xót thương ròng’ của Chúa”, đó cũng là những gì Tin Mừng hôm nay ghi lại. Trước cửa thành Nain, một nhóm người đi ra - biểu tượng sự chết - theo sau là một bà mẹ; một nhóm người đi vào - biểu tượng sự sống - đi trước là Chúa Giêsu.
Họ gặp nhau, Chúa Giêsu nói với bà mẹ, “Đừng khóc nữa!”; và sờ vào quan tài, Ngài bảo, “Hãy trỗi dậy!”. Người chết ngồi lên, Ngài trao anh cho người mẹ. Trình thuật không nói gì đến đức tin của ai; không ai cầu xin, chẳng ai van nài! Chúa Giêsu chỉ thấy một goá phụ đi bên đứa con duy nhất đã chết của cô khi anh được mang đi chôn, và Ngài xót thương. Thế thôi! Như người Samaritanô xót thương nạn nhân sóng soài bên đường; như người cha xót thương đứa con hư hỏng trở về - không cần làm bất cứ điều gì, không cần nói bất cứ điều chi - Ngài hành động chỉ vì ‘thương xót ròng’, trao anh cho goá phụ để cô không lẻ loi. “Lòng trắc ẩn là ngôn ngữ mà người điếc cũng nghe được và người mù cũng thấy được!” - Mark Twain.
Tin Mừng muốn nói, sáng kiến xót thương của Thiên Chúa đối với con người không phụ thuộc vào mức độ đức tin nhất định của ai. Nó đến với chúng ta như chúng ta là, như chúng ta có; và nhu cầu của chúng ta càng lớn thì việc đến của Ngài càng cấp thiết. Chúa ban ân sủng bằng sự hiện diện của Ngài. “Ân sủng là gương mặt của tình yêu khi gặp gỡ sự bất xứng của chúng ta!” - Paul Zahl. Hưởng nhận ân sủng một cách bất ngờ và bất xứng, chúng ta không thể không ngạc nhiên và đáp lại nó theo cách đám đông đã làm - ca ngợi về món quà cứu sống của Thiên Chúa; Luca ghi nhận, “Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận!”. “Ngợi khen là ngôn ngữ của thiên đàng; nó mời gọi quyền năng Thiên Chúa hành động trên đất!” - Jack Hayford.
Anh Chị em,
“Hãy trỗi dậy!”. Ân sủng của Thiên Chúa luôn đi bước trước, nâng kẻ gục ngã như đã nâng chàng trai thành Nain. Ân sủng đó cũng mời gọi mỗi chúng ta trỗi dậy khỏi những vùng chết của tội lỗi, sợ hãi và thất vọng. “Con sẽ sống theo lòng thuần khiết” - Thánh Vịnh đáp ca; sẽ là “người không ai chê trách được” khi “bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch” - bài đọc một - phải là một cam kết trước ân sủng ‘xót thương ròng’ của Thiên Chúa. Ước gì chúng ta biết đáp lại ân huệ nhưng không của Ngài bằng một đời sống tinh tuyền, để mỗi ngày trở nên một chứng nhân tình yêu quyền năng của Đấng vẫn không ngừng gọi tên từng người và nói, “Hãy trỗi dậy!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để ước muốn nên thánh của con nức nở vì con hư hỏng. Xin đặt tay trên ‘quan tài’ linh hồn con, cho mọi vùng chết hồi sinh trong ánh sáng ân sủng!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
============
Suy niệm 3: CHÚA ĐÃ VIẾNG THĂM DÂN NGƯỜI
Tin Mừng hôm nay thuật lại một trong những khoảnh khắc xúc động và đầy nhân hậu nhất của Đức Giêsu: cuộc gặp gỡ giữa Người với một người phụ nữ góa bụa đang trên đường đưa con trai duy nhất đi chôn. Cảnh tượng ấy diễn ra ở cửa thành Na-in – nơi hai đám đông chạm mặt nhau: một đám đi theo sự sống, dẫn đầu là Đức Giêsu; một đám đi trong đau buồn, dẫn đầu là người mẹ mất con. Một bên là hy vọng, một bên là tuyệt vọng. Và chính nơi đó, tình thương và quyền năng của Thiên Chúa đã bừng lên rực sáng giữa khung cảnh chết chóc, khổ đau.
Trình thuật Tin Mừng bắt đầu rất đơn giản: “Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người.” Câu này tưởng chừng chỉ mang tính tường thuật, nhưng thực chất là lời giới thiệu về cuộc hành trình của Đức Giêsu – Đấng luôn bước vào đời sống con người. Người không chỉ giảng dạy trong hội đường hay làm phép lạ nơi những đám đông, mà còn hiện diện trên những con đường đầy bụi bặm, bước vào những hoàn cảnh tăm tối nhất. Và hôm nay, Người bước vào một đám tang – nơi đau thương đang bao trùm tâm hồn một người mẹ goá.
Người thanh niên được khiêng đi là con trai duy nhất của bà mẹ goá. Chi tiết “con trai duy nhất” không chỉ gợi đến nỗi đau mất mát về tình cảm, mà còn nói lên sự sụp đổ hoàn toàn của một tương lai: trong xã hội Do Thái thời xưa, một người phụ nữ goá không còn con trai để nương tựa đồng nghĩa với việc sống không chốn bám víu, bị bỏ rơi bên lề xã hội. Cái chết của người thanh niên không chỉ là mất mát của một người thân, mà còn là sự đe dọa đến cả sự sống còn của người mẹ. Bà không chỉ khóc cho người con, mà còn khóc cho chính phận đời mình – một kiếp người cô đơn, lạc lõng, không hy vọng.
Thánh Luca viết: “Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương.” Câu này như ánh sáng xuyên qua đám mây đen. “Chạnh lòng thương” không chỉ là một cảm xúc thoáng qua, mà là một động từ mang chiều sâu thần học: đó là lòng thương xót của Thiên Chúa được bày tỏ cách cụ thể nơi Đức Giêsu. Trong tiếng Hy Lạp, động từ này mang nghĩa là ruột gan quặn thắt – nói lên một tình cảm rất mạnh mẽ, như thể chính Người đang đau cùng nỗi đau của người mẹ. Và chính lòng thương xót ấy đã thôi thúc Người hành động, vượt qua mọi rào cản, cả lề luật tôn giáo vốn cấm đụng vào người chết. Người lại gần, sờ vào quan tài – một cử chỉ dứt khoát, đầy tình người và cũng đầy quyền năng. Người không đọc lời cầu kinh dài dòng, không thực hiện nghi thức rườm rà, nhưng chỉ nói một câu ngắn gọn: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” Và lời đó mang lại sự sống.
Người chết ngồi lên và bắt đầu nói. Một chi tiết nhỏ, nhưng đầy ý nghĩa: “bắt đầu nói” – nghĩa là sự sống không chỉ được phục hồi về mặt thể lý, mà còn là một sự phục sinh toàn diện. Người thanh niên không chỉ trở về từ cõi chết, mà còn trở lại với cộng đồng, với mẹ mình, với tiếng nói – dấu hiệu của sự hiện diện thật sự trong cuộc đời. Và Đức Giêsu đã “trao anh ta lại cho bà mẹ” – không chỉ là hành động trả lại một người con, mà là phục hồi trọn vẹn phẩm giá, ý nghĩa và hy vọng cho một cuộc đời tưởng như đã tắt.
Phản ứng của dân chúng cũng thật ý nghĩa: “Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.’” Sự kinh ngạc không dẫn đến hoài nghi, nhưng dẫn đến lời ca ngợi. Họ nhận ra rằng nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa thật sự đã viếng thăm – nghĩa là đã hiện diện, đã bước vào, đã chia sẻ và đã cứu độ. Trong Cựu Ước, việc “Thiên Chúa viếng thăm” thường gắn liền với việc Người can thiệp để giải thoát dân Người khỏi đau khổ, như khi Ngài nghe tiếng kêu than của dân trong Ai Cập. Hôm nay, hình ảnh ấy được tái hiện nơi Đức Kitô – Đấng không chỉ giải thoát một dân tộc, mà còn chữa lành từng con người cụ thể, bằng tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa làm người.
Khi mừng lễ Thánh Co-nê-li-ô và Thánh Sipri-a-nô hôm nay, chúng ta chiêm ngắm hai chứng nhân đã sống trọn vẹn tình yêu ấy, và đã dám bước vào con đường đau khổ để hiệp thông với Chúa Kitô. Thánh Co-nê-li-ô, Giáo hoàng, trong thời kỳ bách hại đầy biến động của Giáo Hội, đã không vì sự an toàn cá nhân mà nhượng bộ sự thật. Ngài can đảm lãnh đạo đoàn chiên trong tinh thần hiệp nhất, cảm thông với những anh em từng chối Chúa trong cơn bắt bớ nhưng nay sám hối trở về. Ngài sống trọn tinh thần mục tử: đưa con cái tội lỗi trở lại với vòng tay của Hội Thánh. Thánh Sipri-a-nô, một giám mục thông thái và nhiệt thành, đã đồng hành với thánh Co-nê-li-ô trong việc bảo vệ đức tin và gìn giữ sự hiệp nhất. Ngài là người viết nhiều tác phẩm thần học sâu sắc, nhấn mạnh vai trò của Hội Thánh như Mẹ nuôi dưỡng và gìn giữ đoàn con giữa sóng gió thời cuộc. Cả hai thánh nhân đã kết thúc hành trình đức tin bằng máu đào – trở thành những chứng nhân anh dũng của lòng trung thành, bác ái và hiệp nhất.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay soi sáng đời sống Kitô hữu của chúng ta trong bối cảnh hiện đại. Đức Giêsu vẫn đang “viếng thăm dân Người” – không phải trong các phép lạ ngoạn mục, mà qua những cuộc gặp gỡ đầy yêu thương, những khoảnh khắc ta cảm nhận lòng chạnh thương của Người giữa những lần đổ vỡ, mất mát, và đau buồn của đời mình. Biết bao người trong chúng ta đang bước đi như người mẹ goá: cô đơn, lạc lõng, mệt mỏi, mất hy vọng giữa cuộc đời. Có thể đó là những người đang sống trong cảnh túng thiếu, góa bụa, già yếu không ai chăm sóc, hay những người mẹ đơn thân vất vả nuôi con, những người vừa mất đi người thân yêu, hoặc những ai đang chôn cất một giấc mơ, một lý tưởng đã chết vì thất bại, vì bệnh tật, vì tổn thương. Trong tất cả những điều ấy, Tin Mừng hôm nay nhắn nhủ: Thiên Chúa không đứng xa để quan sát, nhưng là Đấng bước vào, sờ vào quan tài đời ta, và nói: “Đừng khóc nữa! Hãy trỗi dậy!”
Chúng ta cũng được mời gọi trở nên hình ảnh của Đức Giêsu – biết dừng lại trước nỗi đau của người khác, không lướt qua vô cảm, nhưng chạnh lòng thương thật sự. Trong một xã hội ngày càng đông người nhưng lại thiếu vắng sự cảm thông, thì lòng thương xót là ngôn ngữ mạnh mẽ nhất của Tin Mừng. Chúng ta hãy học lấy đôi mắt của Chúa – để thấy người mẹ cô đơn, người thanh niên tuyệt vọng, người già bị lãng quên, người tội lỗi bị ruồng rẫy. Hãy học lấy bàn tay của Chúa – để sờ vào những nơi ai cũng tránh né, dừng lại nơi ai cũng bỏ qua. Và hãy học lấy trái tim của Chúa – để dám nói những lời đem lại sự sống, lời khích lệ, tha thứ, nâng đỡ người khác trỗi dậy.
Cũng như Thánh Co-nê-li-ô và Thánh Sipri-a-nô đã không sợ gian khổ, dám dấn thân vì đức tin và sự sống còn của Giáo Hội, chúng ta hôm nay được mời gọi sống niềm tin không phải chỉ bằng những nghi thức bên ngoài, nhưng bằng trái tim biết yêu thương, phục vụ và dám sống cho sự thật. Ước gì khi rời khỏi nhà thờ hôm nay, chúng ta mang theo một sứ mạng: trở nên dấu chỉ cho người khác thấy rằng “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”, qua chính đời sống yêu thương và dấn thân của chúng ta. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
============
Suy niệm 4: BIẾT CẢM THÔNG VÀ CHIA SẺ (Lc 7,11-17)
“Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương.”
Kính thưa cộng đoàn,
Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết thông cảm với người khác. Cảnh tượng diễn ra trước mắt chúng ta là một đám tang. Một đám tang đầy thương đau. Một bà góa tiễn đưa người con trai duy nhất ra phần mộ. Đứng trước cảnh tượng đó: ai mà không đau xót; Ai mà không cảm thông với số phận của bà góa. Nhiều người đã chia sẻ nỗi mất mát với bà qua hành động đồng hành với bà trên đường đi an táng. Váo thời điểm đó, Chúa Giê-su và các môn đệ chứng kiến và chạnh lòng thương. Chúa Giê-su chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” Người biểu lộ lòng thương xót qua hành động. Người đụng vào quan tài và nói: “Này anh thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy.” Anh thanh niên trỗi dậy và nói được. Như vậy, Chúa Giê-su cảm thông với nỗi đau của bà góa, và Người chia sẻ với nỗi mất mát của bà qua việc cho con trai bà được sống lại. Qua đó, Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta hãy biết cảm thông, chia sẻ và chạnh lòng trước nỗi đau của người khác.
Tác giả Thomas Merton đã mời gọi con người đừng ai sống trơ trơ như một hòn đảo giữa đại dương, một mình mình biết, một mình mình hay. Nhưng chúng ta hãy tìm đến với nhau, biết chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phao-lô đã khuyên bảo: “Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12, 15). Theo gương Chúa Giê-su, chúng ta hãy tập cho mình biết đi ra khỏi mình, đừng bao giờ co cụm lại nơi mình. Hãy biết đi đến với người khác. Mang lấy cái tâm tình của người khác, nghĩa là hãy học biết thông cảm.
Có một câu chuyện được thuật lại như sau:
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một việc kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối “Chị tạp vụ ở trường tên là gì?” Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giảng viên bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị phải luôn gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên chị tạp vụ trong trường: Chị tên là Dorothy.
Vâng, chúng ta hãy tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
Lạy Chúa, xin cho con biết quan tâm đến anh chị em con trong mọi nơi mọi lúc. A-men
Jos. Nguyễn
============