
Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm.
Bài trích sách Huấn ca.
12Đức Chúa là Đấng xét xử,
Người chẳng thiên vị ai.
13Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn,
nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức.
14Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi,
hay tiếng than van của người goá bụa.
16Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người
sẽ được Người chấp nhận,
lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây.
17Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm.
Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng.
18Họ sẽ không rời đi
bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn,
chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý.
Đ.Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời.
2Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.3Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.
Đ.Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời.
17Chúa đối đầu với quân gian ác,
xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời,16nhưng để mắt nhìn người chính trực
và lắng tai nghe tiếng họ kêu.18Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời,
giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.
Đ.Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời.
19Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
cứu những tâm thần thất vọng ê chề.23Chúa cứu mạng các người tôi tớ,
ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ.
Đ.Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời.
Tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.
6 Anh thân mến, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. 7 Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. 8 Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính ; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.
16 Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. 17 Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. 18 Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Ha-lê-lui-a.
Người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính ; còn người Pha-ri-sêu thì không.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
9 Khi ấy, Đức Giê-su kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: 10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11 Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12 Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’ 13 Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’ 14 Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi ; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
========================
Suy niệm 1: NGƯỜI THU THUẾ NÊN CÔNG CHÍNH
(CHÚA NHẬT TUẦN 30 TN NĂM C)
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 30 Thường Niên, Năm C này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin cho được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu, đáng hưởng những gì Chúa hứa ban.
Tin cậy mến, và yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, khôn ngoan tìm kiếm Chúa là chính nguồn cội của mình, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khôn Ngoan: Thần Khí của Đức Chúa ngập tràn cõi đất. Đức Khôn Ngoan mà tất cả các bậc thánh hiền của dân Ítraen tìm kiếm liên kết chặt chẽ với sự sống. Chỉ có tội lỗi mới gây nên cái chết. Chân lý này được nhắc lại không ngừng, nhưng ở đây mang một ý nghĩa mới: Thiên Chúa đã tạo thành mọi sự, để mọi sự hiện hữu, và đối với các bạn hữu của Chúa thì cái chết chẳng có quyền gì… Hạnh phúc thay người được trí khôn ngoan. Khôn ngoan quý hơn cả trân châu, không bảo vật nào so sánh nổi. Đường khôn ngoan là đường thú vị, nẻo khôn ngoan là nẻo an bình. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt.
Tin cậy mến, và yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, chiêm ngắm tình yêu và lòng thương xót của Chúa qua công trình tạo dựng của Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích thư của thánh Cơlêmentê I: Chúa thi ân cho mọi loài khi dựng nên trời đất trong trật tự hài hòa… Lạy Chúa Tể trời đất, Đấng sáng tạo ra nước, Vua muôn loài thụ tạo, xin lắng nghe lời tôi tớ Chúa khẩn cầu. Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa trên trời, xin Chúa thấy cho, xin thương xót chúng con đang phải nhục nhã.
Tin cậy mến, và yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, giữ vững niềm tin khi gặp thử thách, kêu xin Chúa sẽ nhậm lời, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Huấn Ca: Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 33 cho thấy: Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời. Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, trích thư thứ hai của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người Pharisêu thì không. Đức Kitô, Vị Trung Gian hòa giải duy nhất giữa ta với Thiên Chúa, ngoài Người ra, ta không thể cậy dựa vào bất cứ ai hay bất cứ điều gì khác. Người thu thuế đã trở nên công chính nhờ biết cậy nhờ vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, chứ, không như người Pharisêu ỷ vào những công trạng của mình. Thiên Chúa luôn yêu thương quan phòng chăm sóc mọi loài Chúa đã dựng nên, Người luôn lắng nghe kẻ nghèo hèn nài xin, không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, tiếng than van của người góa bụa. Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Chúng ta hãy chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, hãy chạy qua các chặng đường, hãy giữ vững đức tin và đợi chờ vòng hoa dành cho người công chính. Chúng ta hãy dùng trí suy tưởng mà nhìn ngắm Chúa, và hãy lấy con mắt trí khôn mà chiêm ngưỡng lòng nhẫn nại của Người. Người thi ân cho vạn vật, nhưng cách rất dồi dào cho chúng ta là những kẻ chạy đến với Người, Đấng giàu lòng thương xót, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ước gì chúng ta được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu, đáng hưởng những gì Chúa hứa ban. Ước gì được như thế!
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
======================
Suy niệm 2: Khiêm tốn cầu xin Chúa sẽ nhận lời
Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về vị thẩm phán bất công và người góa phụ kiên trì (Lc 18,1-8). Qua đó, Người dạy ta cầu nguyện luôn, đừng nản lòng, vì Thiên Chúa là Đấng luôn lắng nghe lời kêu xin của con cái Người. Hôm nay, Tin Mừng tiếp nối tư tưởng ấy qua một dụ ngôn khác, với hai nhân vật tương phản: người Pha-ri-sêu tự mãn về sự công chính của mình và người thu thuế nhận mình là tội nhân (Lc 18,9-14). Qua đó, Đức Giê-su dạy ta rằng Thiên Chúa nhận lời kẻ khiêm tốn cầu xin, chứ không phải kẻ kiêu ngạo tự phụ.
Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường thấu tới trời cao
Bài đọc I, trích sách Huấn Ca, khẳng định: “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi… Chúa sẽ không trì hoãn” (Hc 35,16-18).
Thiên Chúa không thiên vị người quyền thế, cũng không khinh thường kẻ yếu hèn. Lời cầu của kẻ mồ côi, người góa bụa và bị áp bức là của lễ đẹp lòng Chúa, vì họ chỉ biết cậy trông vào Chúa. Khiêm nhường là chìa khoá mở cửa lòng thương xót Chúa.
Thánh Au-gút-ti-nô đã nói: “Khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức. Nếu không có khiêm nhường, các nhân đức khác chỉ là giả tạo.” Người thu thuế trong dụ ngôn đã có nhân đức nền tảng ấy, biết mình là tội nhân và đặt trọn niềm tin vào Chúa, nên được Chúa xót thương.
Người Pha-ri-sêu và người thu thuế: Hai thái độ trước Thiên Chúa
Trong dụ ngôn, người Pha-ri-sêu lên Đền Thờ cầu nguyện, nhưng thực ra ông chỉ nói về chính mình. Ông kể ra những việc đạo đức mình làm: ăn chay, nộp thuế, tuân giữ Lề Luật… Tệ hơn, ông còn so sánh mình với người khác: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia.” (Lc 18,12). Lời cầu ấy cho thấy cái tôi tự mãn, không cần ở Thiên Chúa điều gì, bởi ông tin rằng công đức riêng đã đủ cứu mình. Chính vì thế, lời cầu ấy không được nhận. Trái lại, người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước lên, chỉ đấm ngực và thưa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” (Lc 18,13)
Lời cầu nguyện của anh ngắn gọn, phát xuất từ cõi lòng sám hối ăn năn. Anh không khoe khoang công đức, không biện minh, chỉ phó thác cho lòng thương xót của Chúa. Đức Giê-su kết luận: “Người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không.” (Lc 18,14)
Sự khác biệt không nằm ở việc ai đạo đức hơn, mà ở thái độ nội tâm. Người khiêm nhường nhận biết mình cần ơn Chúa thì được nên công chính; còn người tự mãn cho rằng mình đã đủ, thì vẫn xa cách Thiên Chúa.
Kinh nghiệm của Thánh Phao-lô cho thấy. Dù “đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin“, ngài vẫn không tự phụ, nhưng hoàn toàn phó thác: “Đấng đã đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha.” (2 Tm 4,17) Phao-lô biết mình chỉ là khí cụ trong tay Thiên Chúa, nên dâng mọi vinh quang cho Ngài. Đó là mẫu gương khiêm nhường tuyệt hảo.
Theo Thánh Gio-an Kim Khẩu: “Không có gì khiến Thiên Chúa xa chúng ta bằng kiêu ngạo, và không có gì kéo Chúa lại gần chúng ta bằng khiêm nhường.” Khiêm nhường không hạ thấp phẩm giá con người, nhưng nó mở ra để ơn Chúa tràn vào tâm hồn.
Bài học từ hai người trên
Trong xã hội hôm nay, khiêm nhường thường bị xem là yếu đuối, là tự hạ trong một thế giới đề cao thành công và tự mãn. Nhưng theo Tin Mừng, khiêm nhường không phải là coi thường bản thân, mà là biết nhìn nhận sự thật: mọi điều ta có đều là ơn Chúa ban. Khi ta nhận ra điều đó, lòng ta được giải thoát khỏi ganh đua, khỏi phán xét, khỏi cái tôi ích kỷ.
Khiêm nhường giúp ta biết lắng nghe người khác, cảm thông với người yếu thế, và sẵn sàng xin lỗi khi sai lầm. Biết cảm tạ thay vì khoe khoang, biết nhận lỗi thật lòng và xin ơn tha thứ như người thu thuế năm xưa. Thánh Phanxicô Assisi từng nói: “Người thật sự khiêm nhường không hề tự cho mình là khiêm nhường.”
Dụ ngôn hôm nay không chỉ kể một câu chuyện xa xưa, mà là tấm gương soi cho mỗi người chúng ta. Trong ta luôn có một phần của người Pha-ri-sêu, tự hào về việc lành của mình, và cũng có phần của người thu thuế ý thức về tội lỗi, khao khát được tha thứ. Điều quan trọng là ta chọn nuôi dưỡng phần nào. Nếu biết khiêm nhường nhìn nhận mình cần Chúa, ta sẽ được đổi mới.
Khi đến với Bí tích Hòa Giải, ta lặp lại lời cầu của người thu thuế: “Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội. ” Chính lúc đó, lòng thương xót Chúa đổ tràn, biến đổi và giải thoát ta.
Thiên Chúa không nhìn vào vẻ bề ngoài, nhưng nhìn thấu tâm hồn. Người Pha-ri-sêu tưởng mình công chính, nhưng trái tim ông trống rỗng tình yêu. Người thu thuế tội lỗi, nhưng lòng anh mở ra cho ơn tha thứ. Đức Giê-su khẳng định: “Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.” (Lc 18,14)
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta biết cầu nguyện với tâm hồn khiêm nhường, sống bác ái với tha nhân, và nhận ra rằng mọi sự tốt lành đều bởi Chúa mà ra.Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
=======================
Suy niệm 3: LỜI CẦU KHIÊM HẠ TRƯỚC THIÊN NHAN
Thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến! Như chúng ta vừa cùng nhau đọc lại Thánh Vịnh 33 trong phần Đáp Ca “Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe” (Tv 33, 7a) cho chúng ta hình dung đôi nét về Thiên Chúa nhân hậu, hằng yêu thương, lắng nghe lời cầu xin của con cái Ngài.
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm, qua dụ ngôn cụ thể: hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện, và Chúa Giê-su đã quả quyết rõ ràng: “Ta bảo các ngươi: người này (người thu thuế tội lỗi) ra về được khỏi tội, còn người kia (người biệt phái tự hào tự cho mình công chính) thì không” (x. Lc 18, 14). Câu nói của Chúa Giê-su khiến chúng ta phải suy nghĩ con người của mỗi chúng ta, cũng như nhìn lại thái độ của chúng ta khi chuyện trò, thưa chuyện, nài nỉ, cầu khẩn, cầu nguyện với Chúa, hay trong mối tương quan.
Trước tiên, chúng ta cùng nhau xác tín lại: Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết rõ tường tận cuộc đời, nguyện vọng, ưu tư, hoạch định và kể cả những gì chúng ta muốn cầu xin Ngài. Hơn nữa, khi cầu nguyện, chẳng phải chỉ có chúng ta là người nói, mà Thiên Chúa cũng muốn thỏ thẻ, hàn thuyên, chuyện trò, tâm sự với chúng ta nữa. Và Thiên Chúa là Đấng hằng lắng nghe và đáp lại lời cầu khẩn của chúng ta như lời trích Sách Huấn Ca đã chỉ rõ rằng: “Thiên Chúa nhậm lời người áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van” (x. Hc 35, 13-14). Lẽ tất nhiên Ngài thương lắng nghe, đoái nhìn hết tất cả mọi người, đặc biệt là những người cô thế cô thân, không chốn tựa nương, bị ruồng bỏ, bị gạt ra bên lề xã hội, những kẻ chẳng được ai đoái hoài, thương đến, v.v…
Dựa trên những điều xác tín trên, chúng ta cần có tâm tư, thái độ, cử chỉ thế nào cho phải đạo? Điều đầu tiên, chúng ta có thể nhận ra được là đừng tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9) khi cầu nguyện cũng như trong đời sống, trong mối tương quan với Chúa cũng như với tha nhân. Chúa Giê-su nói rõ điều đó khi Ngài dùng dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Con người chúng ta thường có khuynh hướng tự tôn và khinh chê hay xem thường người khác, đặc biệt khi chúng ta có chút tài năng, vinh hoa, chức sắc, quyền lực, thành công, thành quả, v.v…và tệ hại hơn, chiều hướng này không chừa một ai trong bất cứ trạng huống nào, kể cả khi đặt bản thân mình trước Chúa, nghĩa là khi cầu nguyện. Như đoạn Phúc Âm thuật lại, cả hai: người biệt phái và người thu thuế đều lên đền thờ cầu nguyện, cả hai đều làm việc phúc lành, đặt mình trước Chúa và chuyện trò, hàn thuyên, tâm sự, khẩn cầu với Ngài, nhưng thái độ của hai ông khác nhau hoàn toàn. Chẳng phải vì hai ông khác biệt về danh giá, chức tước, địa vị, tiền của, sự thành đạt hay được vị nể, v.v…mà lời đáp trả lại trái ngược nhau như vậy! Chính bởi lẽ vì thái độ, tâm tình của hai ông khác nhau khi cầu nguyện, khi làm việc lành phúc đức, cho nên được đáp trả hoàn toàn khác biệt. Thật sự, lắm lúc chúng ta chẳng muốn rơi vào thái độ tự mãn, tự kiêu, kể lễ, phô trương, so sánh để rồi vô hình dung chê bai người khác như người biệt phái trong dụ ngôn, mà ước muốn có tâm tình tự thú, khiêm hạ, nhìn nhận con người yếu hèn, cần đến lòng thương xót, tha thứ của Thiên Chúa như người thu thuế được đề cập trong Tin Mừng hôm nay. Ước muốn là một chuyện, thực hành lại là một chuyện khác. Có lẽ vô vàn lí do, lời biện giải cho thái độ, hành vi ấy, nhưng thiết nghĩ chúng ta chưa đủ khiêm tốn trước Chúa và anh chị em “…người biệt phái đứng thẳng, thầm nguyện rằng: Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác…” (x. Lc 18, 11)! Chúng ta không chịu xét mình trước khi vội vàng xét đoán anh chị em “…tôi không như người khác: tham lam, bất công, ngoại tình; hay là như tên thu thuế kia…” (x. Lc 18, 11) hoặc chúng ta lấy những thành tích, thành tựu, thành quả, công trạng của mình làm tiêu chuẩn đánh giá người khác “…vì tôi không giống như bao kẻ khác…tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng cho Chúa một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi” (x. Lc 18, 12-13). Cho dù chúng ta có thực hiện được những công trạng lớn lao chăng nữa, thì tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa mà thôi, như Thánh Phao-lô quả quyết trong thư nhắn nhủ ông Ti-mô-thê “…Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các dân ngoại được nghe” (x. 2Tm 4, 17). Chính vì thế, tâm tình khiêm hạ, thú nhận thật sự con người của mình yếu đuối, khiếm khuyết, cần được cảm thông, đỡ nâng là tối cần thiết trong mọi hoàn cảnh sống như trong cộng đoàn, gia đình, giáo xứ, mối tương quan giữa vợ chồng, con cái, giữa anh chị em với nhau, với những người chung quanh, công sở, trường học, và nhất là đối với Thiên Chúa, vì “ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên” ( Lc 18, 14) Hơn nữa, thái độ khiêm nhường, hành vi khiêm tốn, cử chỉ khiêm nhu đích thực luôn được biểu lộ sống động và tự nhiên, chứ không bị khiên cưỡng hay giả vờ; và người sống khiêm hạ luôn biết giới hạn, cũng như sở trường sở đoản của bản thân, thể hiện đúng lúc, đúng chỗ vì chưng khiêm tốn không thật, không đúng thì sẽ trở nên tự cao.
Điều sau cùng là thái độ khiêm nhu, nhìn nhận mình yếu đuối trước mặt Chúa và anh chị em, sẽ giúp chúng ta bình an, thân thiện, sống thật với bản thân; và trong đời sống hằng ngày, chúng ta ước mong tha thiết mời Chúa đến sống trong ta, để lời Ngài thánh hoá, biến đổi chúng ta. Bởi lẽ, lắm lúc chúng ta không ý thức được việc mình làm, chúng ta muốn Chúa phải lắng nghe, thực hiện những gì chúng ta cầu xin, dám mong Chúa thay đổi theo ý riêng mình, nhưng quên rằng: hãy để ý Chúa được thực hiện và chính Người sẽ chuyển lay tâm hồn, biến đổi chúng ta trở nên hoàn thiện hơn trong mọi phương diện. Dù chỉ một lời đơn sơ, ngắn ngủi nhưng chất chứa cả tấm lòng, tâm tư mà người thu thuế được hoán cải “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội,…người này ra về được nên công chính…” (x. Lc 18, 13-14).
Giờ đây chúng ta cùng nhau quy hướng về Chúa và thầm nguyện cầu:
Lạy Chúa nhân hậu, xót thương
Chẳng hề chê bỏ, khinh thường, rời xa.
Mãi luôn hiền từ thiết tha,
Chờ con quay gót, bao la tình Người.
Chẳng ai mười phân vẹn mười,
Con nay tạ tội, xin Người thứ tha.
Lời ca khiêm hạ ngân nga,
Nép mình bên Chúa, vang xa cõi lòng. Amen.
Lm. Xuân Hy Vọng
======================
Suy niệm 4: TÂM TÌNH CẦU NGUYỆN NHƯ LÒNG CHÚA MONG
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Trong đời sống đạo, cầu nguyện chính là hơi thở. Một khi chúng ta ngưng cầu nguyện, thì đồng nghĩa với tình trạng đức tin chai sạn, khô cứng, nguội lạnh, và có khi dẫn đến ‘trút hơi thở cuối cùng’.
Ở một thành phố nhỏ kia có đầy đủ các cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ búa, tiệm may, tiệm ăn…, riêng chỉ thiếu là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy, đồng hồ lớn nhỏ nào của cư dân tại đây dần dần bị hư hỏng, hoặc chạy sai. Hầu hết, người ta vứt đồng hồ vào tủ, số khác cố gắng tự lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm, mặc dù chúng chạy không chính xác cho lắm. Một ngày kia, người thợ sửa đồng hồ bất chợt ghé qua thành phố, mọi người rất đỗi vui mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên, anh thẳng thắn nói: “Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn hoạt động; còn chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi”.
Rõ ràng, cầu nguyện chính là hành động giữ cho đồng hồ đời sống ta hoạt động, giữ cho đồng hồ đức tin luôn luôn sống động. Hơn nữa, khi cầu nguyện, chúng ta cần mặc lấy một thái độ khiêm cung, tự hạ, nhìn nhận bản thân là con người tội lỗi đang tha thiết cần đến sự thương xót, đoái trông của Thiên Chúa. Vì chưng, “lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Ðấng Tối Cao đoái nhìn” (Hc 35, 17). Chúa ưa thích tấm lòng khiêm nhu, lời nguyện cầu đơn sơ, những ai tín thác vào Ngài; chứ Ngài chẳng ưng những kẻ khoa trương, đặt mình làm tiêu chuẩn nhằm đánh giá kẻ khác, tự tôn là người công chính và khinh khi tha nhân như người Biệt phái trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Y bắt đầu cầu nguyện với tâm tình tạ ơn Chúa, nhưng không phải biết ơn Ngài đã thương ban cho y bao nhiêu ơn lành, mà với thái độ ‘muốn lôi kéo Chúa đồng tình với mình’ và kể công ‘múa mép’: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi” (Lc 18, 11-12). Tất cả những việc lành của người Biệt phái này hoàn toàn tốt đẹp, nhưng nó sẽ mất ơn phúc nếu chỉ dựa vào đó mà kể công, kể lể, và tự tôn, coi tha nhân không ra gì!
Ngược lại, thái độ và tâm thế cầu nguyện của người thu thuế đáng cho chúng ta học hỏi: “Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’” (Lc 18, 13). Quả thật, chẳng ai trong chúng ta là người công chính trước mặt Chúa cả. Tội lỗi không ít thì nhiều, không bé thì to, không nhẹ thì nặng. Vì vậy, thái độ tự khiêm tự hạ, nhìn nhận tội lỗi mình, kêu cầu Chúa xót thương và tha thứ là điều không thể thiếu. Mẹ Thánh Tê-rê-sa miền Cal-cút-ta xác tín: “Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Và hoa trái của phục vụ là bình an”. Nhờ đời sống cầu nguyện thâm sâu, mà biết bao nhiêu người Công Giáo ra khỏi ‘chăn ấm nệm êm’, rời khỏi ‘tiện nghi cuộc sống’, dám ra đi nhiệt thành làm việc bác ái, sống chia san với anh chị em khác. Như lời bộc bạch của Thánh Phao-lô với ông Ti-mô-thê: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin” (2Tm 4, 7). Thánh nhân can đảm sống trọn chặng hành trình cuộc đời đầy chông gai, thử thách; nhưng ngài vẫn một lòng cậy trông, tín thác vào Đức Giê-su Ki-tô - kim chỉ nam đời ngài.
Ước gì mỗi khi cầu nguyện, chúng ta thấm nhuần tâm tình tự khiêm tự hạ, thái độ khiêm nhường, mặc lấy tâm tình tạ ơn chân thành, để rồi lời khẩn cầu của chúng ta như hương trầm bay toả lên trước thiên nhan Chúa, và cũng nhờ đời sống cầu nguyện, chúng ta trở nên người phục vụ đầy nhiệt huyết.
Lời cầu khẩn con dâng
Tựa áng trầm hương bay
Lên trước thiên nhan Chúa
Lòng tràn đầy hoan hỷ
Kính tiến và tạ ơn.
Cho con lòng yêu mến
Dẫu bao phen trăm chiều
Đời nguyện cầu tha thiết
Sống bác ái thứ tha
Phục vụ và sẻ chia. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
======================
Suy niệm 5: LỜI CẦU NGUYỆN CỦA TẤM LÒNG KHIÊM NHƯỜNG
Lạy Chúa Giêsu, trong giờ phút linh thiêng này, khi chúng con quỳ trước Thánh Thể Chúa, tâm hồn chúng con không chỉ dâng lên sự cảm tạ, mà còn là một sự suy ngẫm sâu sắc về những lời dạy của Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những lời này không chỉ là một bài học về cầu nguyện, mà còn là một lời cảnh tỉnh về thái độ sống trong mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân. Qua dụ ngôn về người Pha-ri-sêu và người thu thuế, Chúa Giêsu không chỉ muốn dạy chúng con cách cầu nguyện đúng đắn, mà còn muốn chúng con nhận thức rõ ràng về sự khiêm nhường, về sự công chính thực sự trước mặt Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Lc 18,9-14), Chúa Giêsu kể cho chúng ta nghe về hai con người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, người còn lại là một thu thuế. Cả hai đều đến cầu nguyện trước mặt Thiên Chúa, nhưng thái độ của họ khác nhau hoàn toàn. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” Người này tự hào về bản thân, khoe khoang những điều tốt đẹp mà mình đã làm: ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười thu nhập cho Chúa. Ông tự cho mình là người công chính, và so sánh bản thân mình với người thu thuế, để thấy mình thật sự xứng đáng hơn trong mắt Thiên Chúa.
Nhưng ngay sau đó, Chúa Giêsu mô tả thái độ của người thu thuế. Người thu thuế này đứng đằng xa, không dám ngước mắt lên trời, nhưng chỉ biết đấm ngực và cầu xin: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Người thu thuế không khoe khoang những hành động tốt lành của mình, mà chỉ dâng lên Chúa một trái tim khiêm nhường, nhận thức rõ ràng về sự yếu đuối và tội lỗi của bản thân. Đó là một lời cầu nguyện của sự thống hối, của sự ăn năn chân thành, không tự cho mình là công chính, mà hoàn toàn cậy nhờ vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn chỉ ra rằng sự công chính không đến từ việc khoe khoang những hành động bên ngoài, mà là từ một trái tim khiêm nhường và thành tâm cầu xin Thiên Chúa thương xót. Chúa Giêsu kết luận: "Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Điều này nhấn mạnh rằng sự công chính thật sự không phải là do chúng ta tự tạo ra bằng những công việc bên ngoài, mà là do Thiên Chúa ban cho, nếu chúng ta biết hạ mình, biết nhận ra sự yếu đuối và khiêm nhường trong mối quan hệ với Ngài.
Chúa Giêsu không phủ nhận những việc làm tốt lành mà người Pha-ri-sêu đã thực hiện: việc ăn chay, dâng phần mười thu nhập... nhưng Ngài muốn nhấn mạnh rằng nếu những hành động đó không được thực hiện với một trái tim khiêm nhường và sự nhận thức về tội lỗi, thì chúng sẽ trở thành vô nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta cách cầu nguyện, mà còn dạy chúng ta cách sống: sống trong sự khiêm nhường, nhận thức được sự yếu đuối và tội lỗi của mình, và luôn cậy nhờ vào lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa.
Thực tế, dụ ngôn này rất phù hợp với đời sống của chúng ta hôm nay. Trong một xã hội mà thành công, danh tiếng và của cải thường được coi là thước đo giá trị của con người, chúng ta dễ dàng rơi vào cám dỗ của sự tự cao, tự mãn, tự hào về những thành tích và công đức của mình. Chúng ta có thể sống một cuộc đời đầy những việc làm tốt, nhưng nếu không có sự khiêm nhường, nếu không nhận thức rõ ràng về sự yếu đuối và tội lỗi của mình, thì tất cả những việc đó sẽ trở thành phù phiếm. Cách sống mà Chúa Giêsu dạy chúng ta là một cách sống không chỉ nhìn vào bên ngoài mà là một cách sống từ trong tâm hồn, nơi mà Thiên Chúa nhìn thấy mọi sự.
Lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta về sự tha thứ và lòng thương xót. Người thu thuế trong dụ ngôn không tự cho mình là công chính, mà luôn nhận ra mình là kẻ tội lỗi cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Đây là thái độ mà chúng ta cần học hỏi trong cuộc sống hằng ngày, để mỗi khi cầu nguyện, chúng ta không chỉ xin Chúa ban ơn lành, mà còn dám nhìn nhận và thú nhận những yếu đuối của mình. Chúng ta cần sự khiêm nhường để nhận ra rằng, dù có làm gì đi nữa, chúng ta luôn cần sự thương xót và ân sủng của Thiên Chúa.
Nhớ lại hình ảnh của Thánh Callitus I, Giáo hoàng và Tử đạo, người mà chúng ta kính nhớ hôm nay, chúng ta thấy ngài là một tấm gương sáng về sự khiêm nhường và lòng trung tín với Thiên Chúa. Mặc dù là một Giáo hoàng, nhưng Thánh Callitus I không tìm kiếm quyền lực hay danh vọng cho mình. Ngài luôn sống trong sự phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Giáo Hội với một trái tim khiêm tốn, luôn nhận thức rằng ngài chỉ là một công cụ trong tay Thiên Chúa. Ngài đã sống một đời sống đầy hy sinh và khiêm nhường, thậm chí đã chịu tử đạo vì đức tin vào Chúa Giêsu. Hình ảnh của ngài là một minh chứng cho lời dạy của Chúa Giêsu về sự công chính đến từ lòng khiêm nhường và sự phụng sự tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, khi chúng con quỳ trước Thánh Thể Chúa hôm nay, xin giúp chúng con học theo gương của Chúa và của Thánh Callitus I, để luôn sống trong sự khiêm nhường và nhận thức về sự tội lỗi của mình. Xin cho chúng con không bao giờ tự hào về những công việc tốt lành của mình, mà luôn cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết sống mỗi ngày trong sự tôn kính và yêu thương, và khi cầu nguyện, luôn dâng lên Thiên Chúa một trái tim khiêm nhường và sám hối, để chúng con có thể đón nhận ân sủng và sự công chính mà Ngài ban cho. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
======================
Suy niệm 6: XIN THƯƠNG XÓT CON
1. Thiên Chúa đứng về phía người khiêm nhu
Trong bài đọc thứ nhất, sách Huấn Ca nhấn mạnh: “Chúa nhậm lời kêu xin của kẻ nghèo hèn” (Hc 35,12-14.16-18). Xuyên suốt lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn đứng về phía người bé nhỏ, yếu đuối và khiêm tốn. Trong Tân Ước, Đức Giêsu đến không để khen ngợi người công chính tự mãn, nhưng để tìm và cứu kẻ lầm lạc. Thánh Phêrô đã quả quyết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.” (1 Pr 5,5)
Khiêm nhường vì thế không chỉ là một đức tính luân lý, mà là căn tính của người được cứu. Người “nghèo hèn” trong Kinh Thánh không chỉ là người thiếu thốn vật chất, mà là người biết mình cần đến Chúa, sẵn sàng mở lòng để đón nhận lòng thương xót.
2. Hai người cầu nguyện – Hai thế giới nội tâm
Với ý hướng trên, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn thật sống động về hai người lên đền thờ cầu nguyện. Người Pharisêu được coi là mẫu mực đạo đức, đứng thẳng và cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” Sau khi trình bày cho Chúa thấy đời sống tốt lành của mình, ông còn cho Chúa thấy sự đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Lời cầu nguyện của ông xem ra rất đẹp, nhưng ẩn chứa một sự lệch hướng sâu xa. Đức Giêsu kết luận: người này ra về mà không được nên công chính. Vì sao? Thưa vì ông lên Đền Thờ không để gặp Chúa, mà để khoe khoang công trạng và thành tích của mình. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại với mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra muốn Chúa “biết ơn ông”. Cái tôi của ông quá lớn, đến nỗi Chúa không còn chỗ trong tâm hồn. Sự sai lầm ấy khiến ông từ một người công chính trở thành kẻ bất chính, như lời Đức Giêsu: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống.” (Lc 18,14)
Ngược lại, người thu thuế chẳng có gì để khoe. Anh đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Không lý luận, không biện minh, chỉ một tấm lòng tan nát và khiêm nhu – và chính nơi đó Thiên Chúa ngự xuống. Anh được nên công chính, vì nhận ra mình cần được cứu. Sự chân thành và lòng khiêm nhường khiến người thu thuế từ một kẻ bất chính trở thành người công chính. Như lời Đức Giêsu đã phán: “Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."
Quả thật, "Một người tội lỗi ý thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh" (Yiddish).
3. Nguy cơ lớn nhất: Ảo tưởng về sự thánh thiện
Điều nguy hiểm nhất trong đời sống thiêng liêng không phải là tội lỗi, mà là ảo tưởng về sự thánh thiện của mình. Khi tự cho mình là “người tốt hơn người khác”, ta vô tình dựng lên bức tường ngăn cách giữa ta với Thiên Chúa và tha nhân.
Điểm yếu nhất của con người là lòng kiêu hãnh. Không lạ gì mà sự thật bị bóp méo và những gì tốt lành cũng bị biến dạng. Người kiêu hãnh biến tôn giáo thành sân khấu cho cái tôi, lấy Chúa làm bình phong, và lấy người khác làm bệ đỡ cho sự tự mãn. Vì thấy đời sống mình quá đầy đủ, nên Thiên Chúa trở thành thừa.
Thật ra, tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hoặc mở ra. Điều quan trọng là ta có nhận ra mình luôn cần đến Chúa hay không. Một người tội lỗi biết mình cần ơn tha thứ còn gần Chúa hơn một vị thánh tưởng mình chẳng cần ơn nào nữa. Điều đó cho ta một xác tín sâu xa rằng: Cầu nguyện không phải để chứng tỏ công trạng, mà để đặt mình trong chân lý: tôi yếu đuối, tôi cần Chúa.
4. Lời cảnh tỉnh giữa thời đại hôm nay
Thế giới hôm nay là thời của “cái tôi phình to” – nơi ai cũng muốn chứng tỏ mình, trên mạng xã hội lẫn ngoài đời. Người ta phô diễn bản thân, tìm kiếm “like” và “share”, nhưng lại quên nhìn vào nội tâm. Chúa Giêsu mời ta trở về với sự thật của lòng mình. Lời Ngài là tiếng chuông thức tỉnh: Ta cầu nguyện để tìm Chúa hay để khẳng định chính mình? Ta có thực sự biết ơn, hay chỉ kể công? Ta có nhận ra mình cần được cứu, hay chỉ thấy mình hơn kẻ khác?
Người khiêm tốn nhận ra mình là kẻ tội lỗi, nhưng không tuyệt vọng. Họ tin rằng: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10), vì quyền năng của Chúa được biểu lộ nơi sự yếu đuối của con người.
Đức Giêsu, Đấng “hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, chính là mẫu gương tuyệt hảo của sự khiêm hạ. Ai bước theo Ngài, không thể đi con đường nào khác ngoài con đường ấy. Khiêm tốn là khởi đầu của tình yêu, của sự hiệp thông và của ơn cứu độ.
Hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cùng thưa lên với lòng thống hối và tin tưởng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Lời cầu ấy tuy đơn sơ, nhưng chứa đựng cả một hành trình hoán cải và tự do nội tâm, nơi con người để cho Chúa chiếm trọn trái tim mình.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Xem ra con đây dễ tự hào,
cũng do bản tính thích làm cao,
cho rằng chỉ mình là độc đáo,
nhưng rồi thực tế chẳng ra sao.
Cũng giống như người Pha-ri-sêu,
cứ tưởng mình là người đạo đức,
khi làm được một ít việc lành,
thấy mình tốt hơn người bên cạnh.
Có thể anh ta là người tốt,
nhưng vì kiêu căng và ngạo mạn,
nên bao công đức cũng tiêu tan,
cuối cùng lại còn mang thêm tội.
Con có làm được điều gì đó,
cũng chỉ là nhờ ơn Chúa thôi,
giống như dụng cụ trong tay chủ,
thành vô dụng nếu không được dùng.
Con biết mình cát bụi mọn hèn,
thân con như sỏi đá ươn hèn,
nếu con có gì đáng tự hào,
thì niềm tự hào là chính Chúa,
Đấng đã khai mở cuộc đời con.
Cho con canh tân lại chính mình,
bớt đi những thói xấu hư hèn,
giảm đi những điều gây hư hại,
loại trừ những thứ khiến hư thân,
một đời yêu Chúa và tha nhân. Amen.
Lm. Thái Nguyên
=======================
Suy niệm 7: Biết Mình Để Khiêm Hạ
Bởi một số người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê người khác, nên Đức Giêsu mới kể dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, với tâm tình và hai thái độ khác nhau. Người Pharisêu ngẩng cao đầu, vừa kiêu ngạo mà khinh chê người khác rằng “con không tham lam, ngoại tình... như tên thu thuế kia...”, rồi kể một lô thành tích cá nhân của mình. Còn người thu thuế thì đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ biết đấm ngực nhìn nhận mình và xin ơn thương xót. Đức Giêsu chấm kết quả rõ ràng: trở về người thu thuế được “nên công chính”, còn người Pharisêu thì không. Người chấm bằng một thang điểm như đảo lộn ngược đời: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. (Lc 18,14).
Người Pharisêu chỉ nhìn thấy những điều tốt của mình, không thấy chi tội lỗi nên dường như không cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa, thì làm sao mà được đón nhận ơn cứu độ? Xem ra ông là người công chính mà lại bị mất điểm của người công chính rồi. Còn người thu thuế thì ngược lại, ông nhận biết thân phận tội lỗi của mình và thấy mình cần đến lòng thương thứ tha của Thiên Chúa. Khi biết nhìn nhận sự thiếu thốn, phận hèn tội lỗi của mình và mở lòng khát khao ơn Chúa, ắt sẽ được Chúa đổ đầy ơn thương xót và thứ tha. Hay hơn nữa, từ thận phận tội lỗi kém cỏi, trở về ông lại được Chúa nâng lên, đã được “nên công chính rồi”.
Sách Huấn ca trong bài đọc một cũng mô tả kết quả của thái độ kiêu căng hay khiêm hạ khi cầu nguyện: “Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má, và tiếng bà kêu chẳng cáo tội kẻ làm bà phải khóc sao? Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng. Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn tàn ác, và báo oán chư dân. Sẽ đến lúc người tiêu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân.” (Hc 35,15-21).
Theo tiêu chí của Đức Giêsu, như người thu thuế, tôi cần trở về mà “học biết mình” trong mối tương quan với Chúa. Nhưng biết mình không phải là chuyện dễ, biết được lầm lỗi của mình lại càng khó hơn. Chính con mắt của ta, nó gần mình nhất mà lại khó thấy nhất. Ta không thể biết mắt mình đẹp hay xấu nếu không soi gương hoặc nhận biết từ người khác. Thầy Giêsu từng dạy muốn “dẫn dắt người” thì phải tự xét mình, phải biết mình trước đã. Khổ nỗi nhìn người khác thì chỉ thấy rõ những cái xấu chình ình mà không thấy điều tốt lành của họ. Nếu có nhìn vào mình thì chỉ thấy “ngon”, chẳng thấy được “cái tôi to đùng” bên trong. Vậy làm sao để biết được mình? Thánh Augustinô cho thấy ta không tự mình biết được, mà phải xin Chúa: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Chỉ khi nào biết trở về với Chúa, trong ánh sáng của Người soi chiếu vào mọi ngõ ngách sâu thẳm hồn ta, mới thấy rõ con người thật của mình. Chính Chúa sẽ hoán cải, đổi thay, chữa lành, thanh tẩy bụi bẩn, giải thoát ta khỏi những ngộ nhận và làm cho ta có sức thay đổi cách sống. Trong khiêm nhường, ta sẽ biết được phận mình mà không còn dám phê bình, chỉ trích tha nhân nữa.
Lạy Chúa! lòng yêu thương, quảng đại bao dung của Chúa ngàn lần lớn hơn những gì chúng con đang có và nghĩ suy. Xin Chúa cho chúng con biết khiêm hạ với những gì chúng con đang có, biết nhìn nhận và tạ ơn vì điều ấy, vì tất cả là nhờ bởi ơn Chúa. Xin cho chúng con biết nhìn nhận anh em bằng ánh mắt yêu thương của Chúa, để đỡ nâng và cùng nắm tay chung xây hạnh phúc nước trời. Amen.
Én Nhỏ
======================
