Ông Na-a-man trở lại gặp người của Thiên Chúa và tuyên xưng Đức Chúa.
Bài trích sách các Vua quyển thứ hai.
14 Thời ấy, ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua nước A-ram, mắc bệnh phong hủi. Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
15 Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” 16 Ông Ê-li-sa nói: “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17 Ông Na-a-man nói: “Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”
Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.
1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Người.
Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.
2Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ,
mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân ;3abNgười đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa
dành cho nhà Ít-ra-en.
Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.
3cdToàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.4Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.
Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Đức Ki-tô.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.
8 Anh thân mến, anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, như tôi vẫn nói trong Tin Mừng tôi loan báo. 9 Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích ! 10 Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.
11 Đây là lời đáng tin cậy:
Nếu ta cùng chết với Người,
ta sẽ cùng sống với Người.
12Nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.
13Nếu ta không trung tín,
Người vẫn một lòng trung tín,
vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Anh em hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, đó chính là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. Ha-lê-lui-a.
Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” 19 Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
=======================
Suy niệm 1: CHỈ CÓ NGƯỜI NGOẠI BANG NÀY
(CHÚA NHẬT TUẦN 28 TN NĂM C)
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 28 Thường Niên, Năm C này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Ân Sủng Chúa vừa mở đường cho chúng ta đi, vừa đồng hành với chúng ta luôn mãi, để ta sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy.
Nhờ ân sủng, thực hành những điều Chúa truyền dạy: can đảm tái thiết Đền Thờ, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Khácgai: Mời gọi tái thiết Đền Thờ. Thiên Chúa nhắc cho dân Người đang chán nản rằng sứ mạng của họ là hoạt động không ngừng. Vào thời điểm đó, họ phải làm việc để tái thiết Đền Thờ. Còn Đền Thờ thiêng liêng là Hội Thánh thì không bao giờ xong cả. Công trình xây dựng đòi chúng ta cố gắng trong tinh thần bác ái yêu thương… Đức Chúa phán: Hãy lên núi tái thiết Đền Thờ cho Ta và Ta sẽ vui thích. Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.
Nhờ ân sủng, thực hành những điều Chúa truyền dạy: làm cho muôn dân nhận biết Danh Thánh Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài chú giải của thánh Syrilô Alêxanria: Danh Ta thật cao cả giữa chư dân… Lạy Chúa, phúc thay người ở trong thánh điện; họ luôn luôn được hát mừng Ngài. Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng Đức Chúa, chúng sẽ thành dân thánh của Ta.
Nhờ ân sủng, thực hành những điều Chúa truyền dạy: kiên tâm thờ phượng Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách các Vua quyển thứ hai: Ông Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và tuyên xưng Đức Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 97 cho thấy: Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân. Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, trích thư thứ hai của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Đức Kitô.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, đó chính là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này? Hãy tạ ơn Chúa, tôn vinh Chúa trong mọi hoàn cảnh, nhất là, những khi gặp thử thách gian truân, như các ngôn sứ, dù tương lai mù mịt, nhưng, vẫn kêu gọi Dân Chúa hãy can đảm lên: tái thiết Đền Thờ, và phải làm cho Nhà Đức Chúa trở thành nhà câu nguyện của muôn dân: phúc thay người ở trong thánh điện; họ luôn luôn được hát mừng Chúa; mọi dân tộc sẽ gắn bó cùng Chúa, và sẽ thành Dân Thánh của Người. Ông Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và tuyên xưng: tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa. Người phong hủi Samaria đã không vào đền thờ gỗ đá, nhưng, đã trở lại với Đức Giêsu, Đền Thờ đích thực: Nền phụng tự vượt ra khỏi biên giới Dothái giáo, không còn dựa trên lề luật, mà, đã đến với mọi dân tộc, dựa trên ân sủng và tình yêu. Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vì Tin Mừng ấy, thánh Phaolô đã phải mang xiềng xích, cam chịu mọi sự, để mọi người đạt tới ơn cứu độ, và được hưởng vinh quang muôn đời. Thời Đấng cứu độ ngự đến, đã xuất hiện một Đền Thánh vinh quang hơn, huy hoàng hơn và cao trọng hơn bội phần so với đền thờ cũ. Càng thẩm định được sự khác biệt giữa phụng tự theo Luật cũ và phụng tự trong Đức Kitô theo tinh thần Tin Mừng, giữa hình bóng và thực tại, thì, ta càng thấy điều đó rõ ràng hơn: Vinh quang của đền thờ cánh chung, tức là Hội Thánh, thì lớn lao hơn. Ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng ta đi, vừa đồng hành với chúng ta luôn mãi, để chúng ta sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Ước gì được như thế!
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
=======================
Suy niệm 2: SỰ BIẾN HÓA TỪ LÒNG TIN VÀ LÒNG BIẾT ƠN
Chúng ta đã nghe trong Tin Mừng hôm nay một câu chuyện đầy cảm động về mười người phong hủi, những người phải chịu đựng sự cô lập và xấu hổ trong xã hội thời bấy giờ. Họ không chỉ mang căn bệnh thể xác mà còn phải chịu đựng sự xa lánh, bị coi là những người ô uế và không được chạm vào những người khác. Tuy nhiên, trong tình huống khốn khó ấy, họ đã gặp được Chúa Giêsu, và qua một hành động từ bi của Ngài, họ được chữa lành. Nhưng điều đáng chú ý không chỉ là sự chữa lành thể xác, mà là những gì Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua thái độ của những người phong hủi này.
Câu chuyện bắt đầu khi mười người phong hủi gặp Chúa Giêsu và kêu lên xin Ngài dủ lòng thương xót: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!" Họ biết rằng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể cứu họ khỏi căn bệnh nguy hiểm và tình cảnh bi đát mà họ đang phải chịu đựng. Chính lúc ấy, Chúa Giêsu, với lòng thương xót vô biên, đã ra lệnh cho họ đi trình diện với các tư tế, như là một dấu hiệu của sự phục hồi và sự tái hội nhập xã hội sau khi được chữa lành. Và điều kỳ diệu đã xảy ra, khi họ đang đi, họ được chữa lành, được sạch hết mọi vết phong.
Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là trong mười người đó, chỉ có một người quay lại, không phải là người Do Thái, mà là một người Samari, kẻ vốn bị xem là ngoại bang, bị coi thường và xa lánh. Người này quay lại, tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Đức Giêsu để tạ ơn. Lời tạ ơn của anh không chỉ là sự thể hiện lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu, mà còn là một sự thừa nhận lòng tin vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhìn vào hành động của anh và khen ngợi: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh."
Câu chuyện này không chỉ là một bài học về lòng biết ơn đối với những gì Thiên Chúa ban tặng, mà còn là một lời mời gọi chúng ta suy nghĩ về mối quan hệ giữa lòng tin và sự chữa lành. Người Samari không chỉ là người được chữa lành về thể xác, mà anh còn được chữa lành về tâm hồn. Lòng tin của anh đã không chỉ mang lại sự sạch sẽ về thể xác mà còn dẫn đến sự cứu rỗi. Lòng tin đó đã làm anh nhận ra rằng chính Thiên Chúa là Đấng chữa lành mọi vết thương, không chỉ là thể xác mà còn là tâm hồn.
Sự tương phản giữa người Samari và chín người còn lại càng làm nổi bật thông điệp mà Chúa Giêsu muốn gửi gắm: Lòng biết ơn và lòng tin không phải là điều mà chúng ta chỉ thể hiện một lần khi chúng ta nhận được ơn lành, mà là một thái độ sống, một sự mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa và quay lại để cảm tạ Ngài. Chúa Giêsu đã hỏi một câu rất quan trọng: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" Đây là một lời nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của lòng biết ơn. Lòng biết ơn không phải là một hành động nhất thời, mà là một thái độ xuyên suốt trong cuộc sống.
Lòng biết ơn và lòng tin là hai yếu tố quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống Kitô hữu. Lòng tin dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, và lòng biết ơn làm cho chúng ta nhận ra những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta mỗi ngày. Chúng ta không chỉ tạ ơn vì những ơn lành lớn lao mà Thiên Chúa ban, mà còn tạ ơn trong những điều nhỏ bé, những gì tưởng chừng như bình thường nhưng lại là dấu chỉ của sự hiện diện và tình yêu của Ngài trong cuộc sống của chúng ta.
Khi Chúa Giêsu nói với người Samari: "Lòng tin của anh đã cứu chữa anh", Ngài không chỉ ám chỉ sự chữa lành thể xác mà còn nói đến sự cứu rỗi linh hồn. Sự cứu rỗi mà Chúa Giêsu mang lại không chỉ là sự tự do khỏi bệnh tật thể xác, mà là sự giải thoát khỏi mọi tội lỗi, sự thù ghét, sự xa cách với Thiên Chúa. Trong tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta được đón nhận sự chữa lành toàn diện, không chỉ là chữa lành thể xác mà là chữa lành tâm hồn, đưa chúng ta lại gần hơn với Thiên Chúa và với nhau.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay là lời mời gọi chúng ta sống một đời sống không chỉ có lòng biết ơn mà còn có lòng tin vững mạnh vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Lòng tin đó không chỉ được thể hiện qua những lời cầu nguyện mà còn trong hành động, trong cách chúng ta đối xử với người khác, trong cách chúng ta sống giữa đời thường. Lòng tin ấy giúp chúng ta nhận ra rằng, bất kể hoàn cảnh, Thiên Chúa luôn ở gần bên, luôn yêu thương và luôn sẵn sàng chữa lành mọi vết thương trong cuộc sống của chúng ta.
Trong cuộc sống Kitô hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ là những người nhận lãnh ơn lành từ Thiên Chúa mà còn phải biết chia sẻ ơn lành đó với những người xung quanh. Chính như người Samari, chúng ta phải dám vượt qua những phân biệt và những kỳ thị xã hội để yêu thương và giúp đỡ những người đang gặp khó khăn, những người bị bỏ rơi, những người mà xã hội ít quan tâm. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng, khi chúng ta giúp đỡ một ai đó vì danh Ngài, chúng ta không chỉ giúp đỡ người đó mà còn đang làm chứng cho tình yêu của Chúa.
Hôm nay, khi chúng ta tham dự thánh lễ này, chúng ta cũng được mời gọi quay lại và cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những ơn lành mà Ngài đã ban cho chúng ta. Mỗi ngày, mỗi khoảnh khắc trong cuộc sống là một cơ hội để chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, để đáp lại tình yêu ấy bằng lòng tin và lòng biết ơn chân thành. Chúng ta không chỉ dừng lại ở việc nhận lãnh, mà còn phải tiếp tục sống và chia sẻ ân sủng đó với những người khác.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Ngài vì đã chữa lành chúng con, không chỉ về thể xác mà còn về tâm hồn. Xin giúp chúng con luôn sống trong lòng tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Ngài, và luôn biết quay lại tôn vinh Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin giúp chúng con biết mở rộng trái tim để yêu thương tất cả những người xung quanh, đặc biệt là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
=====================
Suy niệm 3: Hãy là người có lòng biết ơn
Sống trong một xã hội ngày càng bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cá nhân, sự cạnh tranh và thực dụng, lòng biết ơn, một nhân đức nền tảng của đời sống con người và Ki-tô hữu, đang dần bị xói mòn. Người ta dễ dàng đón nhận ơn lành nhưng lại chậm trễ, thậm chí vô cảm, trong việc bày tỏ lòng biết ơn.
Trên mặt báo và xung quanh ta, thấy những câu chuyện đau lòng như con giết cha, hại mẹ, bỏ nhà đi, đánh đuổi cha mẹ, ấy chưa nói tới người coi trời bằng vung, hoặc sống như thể không có Thiên Chúa. Con người hôm nay đang bị lu mờ sự biết ơn trong tâm khảm mình.
Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn, vì thế, họ vô ơn.
Lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác. Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ. Tạ ơn là lời cầu nguyện tốt nhất mà bất cứ ai cũng có thể dùng. Lời tạ ơn thể hiện lòng biết ơn, sự khiêm tốn và hiểu biết.
Bắt chước ông Na-an-man
Đoạn sách Các Vua quyển thứ hai (2 V 5, 14-17) thuật lại câu chuyện cảm động về Na-a-man, một vị quan lãnh binh quyền thế của vua Syria, đã được chữa lành bệnh phong cùi nhờ vâng phục lời dạy của tiên tri Ê-li-sa, người của Thiên Chúa.
Ban đầu, Na-a-man đến với tâm thế ngờ vực và kiêu căng. Là một người ngoại bang, ông không dễ dàng tin tưởng vào lời khuyên đơn giản: “Xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan” (x.2 V 5, 14). Tuy nhiên, nhờ lòng kiên nhẫn của các tôi tớ mình và cuối cùng là sự khiêm nhường, ông đã làm theo. Phép lạ xảy ra, ông được chữa lành hoàn toàn, “da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ” (x.2 V 5, 14). Đây không chỉ là một sự phục hồi thể lý mà còn là dấu chỉ của một cuộc hoán cải nội tâm sâu sắc.
Việc Na-a-man quay lại để cảm ơn và tuyên xưng: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Ít-ra-en” (2 V 5, 16) là lời tuyên xưng đức tin mạnh mẽ. Từ một người ngoại giáo, ông đã nhận ra quyền năng và sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa. Dù muốn dâng lễ vật để tỏ lòng biết ơn, nhưng tiên tri từ chối nhận thể hiện sự trong sạch, không lợi dụng quyền năng Thiên Chúa vì tư lợi.
Na-a-man xin mang một ít đất Ít-ra-en về, cử chỉ mang tính biểu tượng, thể hiện lòng tôn kính Thiên Chúa của Ít-ra-en và ý muốn gắn bó với đức tin mới tìm thấy. Qua câu chuyện, ta thấy được lòng biết ơn sâu sắc dành cho Thiên Chúa.
Lòng biết ơn của người Sa-ma-ri-a
Trình thuật Tin Mừng (Lc 17,11-19) kể lại phép lạ Chúa Giê-su chữa lành cho mười người phong cùi, những người bị xã hội loại trừ vì bị xem là ô uế cả về thể lý lẫn thiêng liêng. Họ đã cùng nhau cất tiếng kêu xin: “Lạy Thầy Giê-su, xin thương xót chúng tôi!” (Lc 17,13). Chúa Giê-su không chữa lành tại chỗ, nhưng truyền họ “hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14). Họ vâng nghe, lên đường, họ được sạch. Nhưng chỉ một người quay lại, sấp mình dưới chân Chúa và tạ ơn.
Người ấy là người Sa-ma-ri-a, một dân ngoại, bị coi thường bởi người Do Thái. Anh không chỉ được chữa lành thể xác, mà còn được Chúa tuyên bố: “Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi” (Lc 17,19).
Qua câu chuyện này, Chúa Giê-su nhấn mạnh đến giá trị của lòng biết ơn, không chỉ là phép lịch sự, mà là dấu chỉ của một tâm hồn nhận ra hồng ân Thiên Chúa và đáp lại bằng đức tin sống động.
Bài học cốt lõi về lòng biết ơn
Cả ông Na-a-man, một tướng quân người Syria, và người Sa-ma-ri-a, một bệnh nhân phong cùi, đều là những người ngoại giáo. Thế nhưng, chính họ lại là những người biết quay về, cúi mình, và tạ ơn sau khi được Thiên Chúa chữa lành.
Ông Na-a-man, sau khi được khỏi bệnh, đã trở lại với ngôn sứ Ê-li-sê và tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa quyên năng duy nhất (x.2 V 5,15). Còn người Sa-ma-ri-a, sau khi được lành, “quay lại, lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn” (Lc 17,15-16).
Điều đáng chú ý là cả hai đều nhìn nhận ơn họ được Chúa chữa lành. Ơn này trở thành điểm khởi điểm của đức tin, thay đổi tâm hồn. Họ không chỉ vui vì được khỏi bệnh, mà vui vì họ đã gặp được Thiên Chúa, Đấng yêu thương.
Trong khi đó, những người Do Thái trong Tin Mừng hay triều thần xung quanh Na-a-man lại không được nhấn mạnh đến lòng tin hay lòng biết ơn.
Trong một thế giới dễ quên ơn, chúng ta được mời gọi sống như Na-a-man và người Sa-ma-ri-a: biết ơn và biết quay về với Chúa.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
==========================
Suy niệm 4: LÒNG BIẾT ƠN
1. Lòng biết ơn – nét đẹp cao cả của con người
Bài đọc thứ nhất (2V 5, 14–17) kể lại một hình ảnh cảm động: Tướng Naaman người Syria bị phong hủi, sau khi được ngôn sứ Êlisa chữa lành, đã trở lại tạ ơn. Ông dâng quà biếu Êlisa, nhưng ngôn sứ cương quyết từ chối – vì lòng biết ơn của Naaman đã là món quà đẹp nhất rồi.
Naaman được lành bệnh, nhưng điều quý giá hơn là tâm hồn ông được đổi mới: ông nhận ra rằng không có Thiên Chúa nào ngoài Thiên Chúa của Israel. Lòng biết ơn ấy làm ông trở thành người được cứu độ, chứ không chỉ là kẻ được chữa lành. Từ hình ảnh đó, Tin Mừng hôm nay dẫn ta đến câu chuyện mười người phong được Đức Giêsu chữa lành.
2. Mười người phong – mười khuôn mặt của nhân loại
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu gặp mười người phong hủi đứng từ xa kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con!” Người chỉ đáp: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Và trên đường đi, họ được lành sạch. Thế nhưng, chỉ một người quay lại để tạ ơn, và người ấy lại là một người Samari – dân ngoại bị khinh bỉ. Chín người kia vui mừng với ân ban, nhưng quên Đấng ban ân. Đức Giêsu thốt lên trong nỗi ngậm ngùi: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Còn chín người kia đâu?” Câu hỏi của Chúa không chỉ dành cho họ, mà cũng là lời chất vấn từng người chúng ta hôm nay.
3. Biết ơn – cánh cửa dẫn vào ơn cứu độ
Đức Giêsu không làm ơn để được người ta biết ơn, nhưng lòng biết ơn là con đường để con người gặp lại Thiên Chúa. Người Samari duy nhất trở lại đã được chữa lành một lần nữa trong tâm hồn. Anh đã không chỉ nhận được ơn khỏi bệnh, mà còn được ơn cứu độ, khi Chúa nói: “Đức tin của anh đã cứu anh.” Đó là điều mà Kinh Tiền Tụng IV đã nói lên:“Chúa không cần chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ muôn đời”.
4. Vô ơn – căn bệnh âm thầm của thời đại
Câu chuyện chín người không trở lại là tấm gương phản chiếu xã hội hôm nay: con cái quên ơn cha mẹ; học trò quên ơn thầy cô; người ta quên ơn nhau, và bi kịch nhất – con người quên ơn Thiên Chúa.
Ta dễ cầu xin khi gặp gian nan, nhưng lại quên tạ ơn khi được bình an. “Chúng ta dễ nhớ những điều làm ta tổn thương, nhưng lại quên mau những ơn lành ta đã nhận.” (Gioan Kim Khẩu). Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình yêu. Người vô ơn không chỉ mất đi lòng nhân nghĩa, mà còn đánh mất chính mình trước Thiên Chúa.
5. Lòng biết ơn – ký ức của trái tim
Ngạn ngữ Pháp nói: “Lòng biết ơn là ký ức của trái tim.” Ký ức ấy giúp con người không quên nguồn cội, biết cúi đầu khiêm tốn, và nhận ra mọi sự trong đời là hồng ân nhưng không. Cuộc sống là một chuỗi ân huệ nối tiếp nhau. Từ hơi thở, giọt nước, đến tình yêu, tình bạn, niềm tin – tất cả đều là quà tặng. Chúng ta không thể sống mà không nhờ đến tình yêu của bao người khác.
Nếu cuộc sống là lãnh nhận, thì lòng biết ơn là cách sống đẹp nhất của con người. Người biết ơn là người có chiều sâu nội tâm, biết nhìn thấy hồng ân trong mọi biến cố, và biến lời “cám ơn” thành bông hoa rực rỡ điểm tô cho cuộc sống nhân loại.
6. Đức Giêsu – bài ca tạ ơn của nhân loại
Khi nhìn ngắm Đức Giêsu, ta nhận ra toàn bộ cuộc đời Ngài là một bản trường ca tạ ơn. Ngài tạ ơn Cha khi thấy các môn đệ nhỏ bé hiểu được mầu nhiệm Nước Trời (x. Mt 11,25). Ngài tạ ơn Cha trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại. Và đặc biệt, Ngài tạ ơn Cha trong Bữa Tiệc Ly, khi cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Từ đó, mỗi Thánh lễ trở thành lễ Tạ ơn – Eucharistia, nơi con người hiệp thông với Chúa trong niềm tri ân.
7. Mỗi Kitô hữu – bài ca tạ ơn sống động
Người Kitô hữu là người biết sống tạ ơn trong mọi hoàn cảnh: tạ ơn khi được chúc phúc, và cả khi phải đi trong đêm tối. Tạ ơn không chỉ là cách nói, mà là một cách sống. Đời mỗi người là quà tặng của Thiên Chúa, và đẹp biết bao khi ta biến mình thành quà tặng cho tha nhân.” Lòng biết ơn làm cho con người biết trân trọng từng giây phút, biết mỉm cười với thử thách, và biết yêu thương như một cách tạ ơn.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Đời sống con là ân ban của Chúa,
là một chuỗi ân huệ nối tiếp nhau,
để làm cho cuộc sống được tươi mầu,
Con tạ ơn Chúa vì thành công và may mắn,
cả những thất bại và cay đắng trong đời.
Con tạ ơn Chúa vì niềm vui và hạnh phúc,
cả nỗi buồn đau và những lúc khổ sầu.
Con tạ ơn Chúa những gì được cũng như mất,
những gì đã hoàn tất cũng như đang dang dở.
Con tạ ơn Chúa vì có những người quí mến,
và cả những người đã ghét bỏ khinh chê.
Con tạ ơn Chúa khi mạnh khỏe và sung túc,
cũng như lúc bệnh tật và tai ương hoạn nạn.
Con tạ ơn Chúa những ngày sống bình an,
cả những ngày tháng đầy hoang mang lo sợ.
Con tạ ơn Chúa vì những đỡ nâng và an ủi,
cả những lúc bị dập vùi và lủi thủi cô đơn.
Con tạ ơn Chúa vì có khả năng để phục vụ,
cả những yếu kém và nhiều điều chưa đủ.
Con tạ ơn Chúa về tất cả,
chẳng loại trừ ra một điều gì,
vì đã góp phần làm nên cuộc sống con.
Con có chết cũng tạ ơn không hết,
vì đời con đầy dấu vết của tội nhơ,
mà tình Chúa thương vẫn vô bến vô bờ.
Con tận dụng những ngày giờ còn lại,
sống hết mình cho Chúa cho tha nhân,
để tri ân tình Chúa đến muôn đời. Amen.
Lm. Thái Nguyên
========================
Suy niệm 5: Lòng Tin Vâng Phục Và Biết Ơn
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari (đất của dân ngoại) và Galilê. Khi Người vào làng, có mười người phong hủi (cả người Do Thái và Samari) đón gặp Người, nhưng họ dừng lại từ đằng xa vì thân phận cùi, rồi đồng thanh kêu to: “Lạy Thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13). Chuyện hay ở đây là cả người Do Thái và người ngoại cùng biết chạy đến với Thầy Giêsu. Họ bị cùng một bệnh, cùng đau khổ, cùng bị loại trừ... Sự hiệp tâm này xóa đi hàng rào ngăn cách với dân ngoại. Họ biết thương nhau, ở chung với nhau, chia sẻ với nhau, cùng “kêu lớn tiếng” với Người.
Đức Giêsu chưa chữa lành ngay, nhưng giục họ đi trình diện tư tế. Họ liền vâng nghe và làm theo ý Chúa. Quả nhiên đang trên đường đi trình diện tư tế thì họ được sạch chứng bệnh quái ác đó. Nhưng câu chuyện Tin Mừng không kết ở đây, mà xảy ra là anh dân ngoại được khỏi lập tức quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Chúa. Anh chỉ biết sấp mình phủ phục dưới chân Chúa mà tạ ơn, có lẽ với hết cả tấm lòng, hết sức. Lòng tin, sự vâng phục, lòng chân thành biết ơn của anh thật đáng nể. Cảnh chênh lệch thái độ giữa hai hạng người làm Chúa phải nghĩ ngợi mà thốt lên: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17,17-18). Có lẽ chín người kia đi trình diện tư tế, được nhập lại cộng đoàn sinh hoạt vui vẻ, hết khổ đau tủi nhục lại an nhiên mà quên người đã mang lại tự do hạnh phúc cho mình. Còn anh ngoại giáo sẵn lòng tin mến biết ơn, cảm nhận rõ tình thương của Chúa, nên anh quay trở lại để “gặp gỡ” Đấng đã làm cho anh được sạch. Người khích lệ anh: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” và Người khẳng định rằng: “Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. (Lc 17,19). Phút gặp gỡ này đem lại cho anh niềm vui hạnh phúc lớn hơn cả ơn được khỏi bệnh nữa. Gặp gỡ được Đấng thi ân thì hạnh phúc còn lớn lao hơn những gì mình đã được. Anh tôn vinh vì anh nhận thấy tình thương còn lớn lao hơn những thứ khác. Chính Chúa đã chứng nhận lòng anh, phút gặp gỡ này này đã làm nên lịch sử và làm cho cuộc đời anh đổi thay. Anh sẵn sàng tuyên xưng Chúa và sẽ thành lời tạ ơn suốt cả cuộc đời.
Trong đời sống đức tin, những người không nhận ra những ơn mình đã nhận được thì không biết tạ ơn. Còn ai nhận ra và biết cám ơn thì càng thấy mình hạnh phúc hơn gấp bội. Bởi vì lời tạ ơn chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng được tạ ơn lại là hồng phúc để đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Đức tin luôn khởi đi từ lòng khát khao ước muốn cách mãnh liệt, sẵn sàng tìm kiếm và làm theo lời dạy của Chúa. Câu chuyện của anh Samari hôm nay thật giống chuyện của ông Na-a-man, ông quan lớn nhất trong triều đình ngoại giáo trong bài đọc I. Ông vâng phục người của Chúa, kiên trì xuống tắm sông bảy lần rồi được khỏi. Ông đã trở lại gặp người của Chúa để tạ ơn và ông đã tuyên xưng đức tin vững vàng một cách công khai: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây… Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa”. (2V 5,15.17). Trong niềm vui hạnh phúc nên người cho kẻ nhận “giành nhau” mà từ chối. Ân thiêng nhận được còn lớn hơn gấp bội, chứ không dừng lại ở vật chất hay được cái này, cái kia.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.” (2Tm 2,11-13).
Lạy Chúa, tình thương Chúa bao la, trải rộng trên hết mọi người không trừ ai. Xin Chúa cho con luôn biết nhìn vào những gì chúng con đang có, mà cảm nhận, tạ ơn Chúa với lòng biết ơn chân thành của những người con luôn được Cha bảo bọc yêu thương trong từng phút giây. Ước gì cả đời con sẽ trở thành một bài ca, thành lời tạ ơn không ngừng dâng lên Thiên Chúa tình thương. Amen.
Én Nhỏ
========================
Suy niệm 6: CẦU XIN VÀ TẠ ƠN (Lc 17,11-19)
“Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn.”
Kính thưa cộng đoàn,
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy mẫu gương của việc cầu nguyện. Cầu nguyện cần có tâm tình nào. Bài trích sách các Vua quyển thứ hai thuật lại câu chuyện ông Na-a-ma được khỏi bệnh phong cùi. Ông Na-a-man là tướng chỉ huy quân đội nước A-ram. Ông tìm mọi cách chữa trị, nhưng không khỏi. Ông đến gặp ông Ê-li-sa, nghe lời tắm dưới sông Gio-đan bảy lần và được lành. Ông đã đến cám ơn ông Ê-li-sa và ca tụng Thiên Chúa: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en.” Ông tặng ngôn sứ Ê-li-sa nhiều thứ, nhưng đều bị từ chối. Cuối cùng, ông Na-a-man xin được mang đất về quê hương và hứa “Vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.” Như vậy, cầu nguyện giúp biến đổi con người và nhận ra con đường cứu độ. (x.2 V 5,14-17). Lời cầu xin luôn có hiệu lực đối với con người thành tâm thiện chí. Khi Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem, Người gặp mười người phong cùi. Mười người này vượt qua các luật lệ người Do-thái, tiến đến kêu xin rằng: “Lạy Thầy Giê-su, xin rủ lòng thương chúng tôi.” Họ tin tưởng vào quyền năng của Chúa Giê-su, bởi họ không còn chỗ nào để bám víu. Họ đã chạy chữa khắp nơi mà không khỏi. Khi Chúa Giê-su bảo họ đi trình diện với các tư tế. Họ lên đường và đang khi họ được khỏi. Họ mong muốn được hòa nhập với cộng đoàn và xã hội. Họ đến trình diện với tư tế. Khi nào tư tế xác nhận đã khỏi, họ mới được sinh hoạt bình thường với mọi người. Tất cả mười người đều được khỏi. Tuy nhiên, chỉ có một người trở lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Người này là người Sa-ma-ri. “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn.” Chúa Giê-su buồn vì chín người kia không biết trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Người buồn hơn nữa, vì người trở lại tạ ơn lại là người dân ngoại. Vậy còn những người được nghe lời Chúa, được học biết Kinh Thánh, được giảng dạy những điều được tiên báo trong sách Luật, Ngôn Sứ, Thánh Vịnh lại không nhận ra Đấng Mê-si-a sao? Chúa Giê-su đã nói với người Sa-ma-ri: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Như thế, lời cầu xin và tạ ơn luôn phải đi đôi với nhau.
Trong cuộc sống, con người thường xin nhiều hơn. Ít người nhớ đến tạ ơn. Tạ ơn thường được nhắc đến những khi thành công và đạt được điều gì đó. Mỗi khi gặp khó khăn, con người chạy đến với Thiên Chúa và các thánh để xin ơn. Khi xin được ơn cần, mấy người nhớ đến để tạ ơn Thiên Chúa. Mỗi người được mời gọi hãy chạy đến với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Mỗi người cần thay đổi đời sống khi được ơn Chúa soi sáng và sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống trong tâm tình tạ ơn. A-men
Jos. Nguyễn
=======================
Suy niệm 7: SỐNG TÂM TÌNH TẠ ƠN
Thời gian mới tới vùng đất Phù Tang, khi được tiếp xúc với các em mẫu giáo ngay ở giáo xứ, các em được dạy thực hành nói lời ‘cám ơn’, ‘xin lỗi’, và ‘xin vui lòng…’ hằng ngày. Trong môi trường giáo dục học đường từ cấp thấp nhất, ai ai cũng thuộc nằm lòng ‘nhân, nghĩa, lễ, trí, tín’ và được dạy nói lời cám ơn khi nhận gì đó từ người khác, nói lời xin lỗi khi mắc lỗi hoặc làm phiền ai,…
Thế nhưng, đây chỉ là những gì căn bản nhất của một con người. Thử nhìn vào thực tế thì lời ‘cám ơn’, chữ ‘xin lỗi’ trở nên khó nhằn khi phải mở miệng thưa đáp. Có ai đó thốt lên rằng: ‘thật khó nói lời xin lỗi! Và phải chăng tiếng cám ơn giờ đây lại quá xa xỉ!’
Thánh Ber-na-đô từng nói: “Sự vô ơn là một bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và tạo vật, là một chiếc đập ngăn chặn nguồn suối với dòng sông”. Khi con người chúng ta không biết sống tâm tình tạ ơn, thì một vách ngăn vô hình hiện hữu, tách rời ta khỏi Thiên Chúa và mọi vật xung quanh, như thể nguồn nước bị chặn lại, dòng chảy bị ứ đọng. Bởi đó, phải biết mặc lấy tâm tình cảm tạ Chúa mọi lúc, mọi nơi, và trong mọi biến cố, vì chưng biết ơn chính là một lời kinh nguyện tuyệt vời dâng lên Chúa, chẳng chút so đo, chẳng mảy may toan tính.
Với ai sống trọn tâm tình biết ơn mỗi ngày, chắc hẳn Chúa sẽ ban cho họ những sự cần thiết, dẫu họ không van nài, kêu xin. Như ông quan lãnh binh Sy-ri-a tên là Na-a-man đã biết quay lại đội ơn ‘người của Thiên Chúa’ - tiên tri Ê-li-sa, mà nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông” (2V 5, 15). Hơn thế, một trong mười người được Chúa Giê-su chữa lành khỏi bệnh phong hủi, “nhận thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giê-su và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria” (x. Lc 17, 15-16). Thật vậy, biết ơn là một nhân đức tốt đẹp của người Ki-tô hữu. Chúng ta hãy không ngừng cảm tạ Chúa, chẳng phải chỉ trong những thời khắc thành công, những giờ phút may mắn và gặp được những sự tốt lành; mà còn biết sống tâm tình tri ân cảm tạ Chúa ngay cả khi buồn phiền, lúc chứng kiến hoạn nạn, trải qua tai ương thử thách nữa. Với tâm tình này, chúng ta nhớ đến nhân vật ông Gióp lúc phải đối mặt với đau khổ tột cùng, bạn bè xa lánh, kể cả bà vợ ông cũng trách cứ thậm tệ, nhưng ông vẫn một lòng tín trung, sống trọn vẹn tâm tình tạ ơn: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2, 10), và “thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa” (G 1, 21).
Quả thật, lòng biết ơn, tâm tình tạ ơn, tiếng nói cám ơn tuy giản đơn, nhưng để sống trọn vẹn và thật tâm với nó thì đòi hỏi chúng ta phải biến nó thành xương tuỷ, biến nó thành lối sống của ta. Ca dao Việt Nam nói không sai:
“Ơn ai một chút chớ quên.
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”.
Và nếu sống vô ơn bội nghĩa thì:
“Ai mà phụ nghĩa quên công,
Dù đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”.
Sự vô ơn, vong ơn, bội nghĩa, phụ tình quên công không chỉ dừng lại ở việc quên nói lời cám ơn, mà nó chi phối cả cuộc sống, cả cách sống, cách đối nhân xử thế nữa, v.v…Vì vậy, Chúa Giê-su ngạc nhiên trước hành vi của chín người cũng được chữa lành như người Sa-ma-ri-a, nhưng họ lại vô ơn: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này” (Lc 17, 17-18). Ngạn ngữ Pháp có câu rất chí lý: “Lòng biết ơn là ký ức của tâm hồn”. Phải chăng, chín người kia không quay trở lại cám tạ Chúa, vì họ là người mau quên, không có ký ức sao? Lòng biết ơn, tâm tình cảm tạ gắn liền với con tim, gắn liền với cung cách sống, gắn kết với những gì thân tình nhất của con người. Nếu chưa trở nên ‘xương thịt, máu tuỷ’ của ta, thì lời cảm ơn, lòng biết ơn, tâm tình tạ ơn vẫn chỉ là hạn từ không hơn không kém, tệ hơn nữa, nó nằm ngoài chúng ta. Tương tự như câu chuyện ngắn sau: Trên một chuyến xe buýt, một em bé đang ngồi ở hàng ghế đầu. Thấy ông lão khập khiễng bước lên, cậu bé nhanh chân đứng dậy nhường chỗ cho ông lão. Ông ấy cứ thế lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế mà cậu bé vừa nhường cho. Thoạt nhiên, chẳng hiểu sao, cậu bé quay lại hỏi ông lão: “Thưa ông, ông vừa nói gì ạ?" Ông lão trợn mắt to tròn đáp: “Không, ông có nói gì đâu!" Nghe thế, cậu bé lễ phép nói: “Vậy mà cháu cứ tưởng ông nói “cám ơn” chứ!” Thật xót xa thay cho một quảng đời dài đăng đẳng của ông lão, thế nhưng chỉ một lời cám ơn đơn giản vậy mà khó nói đến thế ư! Có lẽ chẳng phải khó, đúng hơn, tâm tình biết ơn-tạ ơn chưa trở nên lối sống của chúng ta chăng?
Một khi thấm nhập tâm tình tạ ơn, và sống lối sống biết ơn hằng ngày, chúng ta sẽ khắc sâu vào tâm khảm lời Thánh Phao-lô xác thực với ông Ti-mô-thê: “Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2Tm 2, 11-13). Dẫu chúng ta yếu đuối, bất trung, thì Chúa vẫn trung tín. Dẫu chúng ta lãng quên ân tình, sống vô ơn, thì Người chẳng hề bỏ, mà ngược lại hằng chờ trông, kêu mời chúng ta trở về với Người. Nhưng tiên vàn, tâm tình tạ ơn, tán tụng hồng ân Chúa mỗi thời khắc, mọi giây phút trong đời rõ ràng sẽ nâng chúng ta lên với Chúa, đưa chúng ta gần tới Chúa như đứa con thơ luôn sống thảo kính với người cha nhân từ đầy mến thương dịu hiền.
Tạ ơn Chúa thời khắc cuộc đời
Tạ ơn Người sức khoẻ trao ban
Tạ ơn Chúa tình mến dìu đưa
Tạ ơn Người muôn nẻo bình an…Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
======================