Đức Giê-su được cất lên ngay trước mắt các ông.
Khởi đầu sách Công vụ Tông Đồ.
1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu 2 cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. 3 Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. 4 Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, 5 đó là: ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.”
6 Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không ?” 7 Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, 8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. 10 Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh 11 và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
Bài đọc 2: Ep 1,17-23
Thiên Chúa đã đặt Đức Ki-tô ngự bên hữu Người trên trời.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-xô.
17 Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. 18 Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, 19 đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, 20 mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. 21 Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. 22 Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh ; 23 mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.
Tin Mừng: Lc 24,46-53
Đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.
Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
46 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.
49 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. 51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. 52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
=========
Suy niệm 1: ĐANG KHI CHÚC LÀNH NGƯỜI LÊN TRỜI
(LỄ CHÚA THĂNG THIÊN NĂM C)
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Chúa Thăng Thiên, Năm C hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển; là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng ta vào Nước Chúa, khiến chúng ta là những chi thể của Người, nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang.
Nắm chắc hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang, khi sống hiệp nhất với nhau, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù, là những chi thể của Chúa Kitô, tất cả đều được kêu mời sống hợp nhất, mỗi người tùy theo công việc phục vụ mình đã lãnh nhận. Đức Kitô đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho người dương thế. Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và.
Nắm chắc hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang, khi cùng chịu khổ với Đấng từ trời xuống, để được cùng lên trời với Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Autinh nói: Không ai đã lên trời, ngoại trừ Đấng đã từ trời xuống… Sau khi Đức Giêsu chịu khổ hình, trong bốn mươi ngày Người đã hiện ra nói chuyện với các Tông Đồ về Nước Thiên Chúa. Rồi ngay trước mắt các ông, Người lên trời, có đám mây rước Người lên, khuất mắt các ông. Đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà đợi chờ điều Chúa Cha đã hứa.
Nắm chắc hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang, khi làm chứng cho Người khắp tận cùng trái đất, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói: Đức Giêsu được cất lên ngay trước mắt các ông. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 46, vịnh gia cho thấy: Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Thiên Chúa đã đặt Đức Kitô ngự bên hữu Người trên trời.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật: Đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Đang khi chúc lành, Người được rước lên trời, còn, các môn đệ thì đi giảng dạy cho muôn dân. Người đã lên trời và không rời xa chúng ta, thì cũng vậy, chính chúng ta đã ở đó với Người, dù, trong thân xác, chúng ta vẫn chưa xảy ra điều Người hứa với chúng ta. Người đã được đưa lên các tầng trời, nhưng dưới đất, Người vẫn còn phải chịu bất cứ nỗi khổ cực nào, mà chúng ta cảm thấy, với tư cách là chi thể của Người. Người đã chứng thực điều này khi từ trên cao hô lớn: Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?, hay khi Người nói: Xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn. Người đã lên trời, nhưng, cũng ở với chúng ta, và chúng ta tuy ở đây, nhưng, cũng đã ở với Người. Người có thể thực hiện điều đó là do thần tính, quyền năng và lòng yêu mến. Còn chúng ta, tuy không thể làm được như Người nhờ thần tính, nhưng, có thể làm được nhờ lòng yêu mến đối với Người. Người đã từ trời xuống vì lòng xót thương, chỉ một mình Người đã lên trời, nhưng, chúng ta cũng lên trời ở trong Người nhờ ân sủng. Ước gì chúng ta biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển; là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng ta vào Nước Chúa, khiến chúng ta là những chi thể của Người, nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Ước gì được như thế!
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
==========
Suy niệm 2: Đầu về Trời – niềm hy vọng cho thân xác
"Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha". Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và các mộn đệ. "Người căn dặn các Tông đồ xong... ". Và sau đó " Người lên Trời " (x. Cvtđ 1, 1- 11). Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời trên.
Đầu về Trời
Chúa Giêsu, vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, sống lại, vinh hiển về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Theo lời thánh Lêo Cả, Chúa Giêsu Kitô, Vị Thủ Lãnh của chúng ta vinh hiển bước vào thiên đàng ngự bên hữu Đức Chúa và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. LEO CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời). “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Niềm hy vọng cho thân xác
Lễ Chúa Giêsu lên Trời là lễ của niềm hy vọng, vì lễ này báo trước cảnh ngọt ngào của Thiên Đàng. Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể, Người đi trước để chúng ta được tiếp bước theo sau vào Thiên Đàng. Vẫn theo lời Thánh Leo Cả: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh chúng ta sống lại với Người trong đời sống mới đầy ân sủng, chúng ta cũng đạt tới Trời nhờ sự lên Trời của Người. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Người, hoàn toàn phụ thuộc vào Người và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Người” (x. LEO CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời).
"Thầy đi dọn chỗ cho anh em…Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14,3). Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Đó cũng là niềm hy vọng của chúng ta (thân xác) chi thể của Người. Chứng kiến cảnh Chúa Giêsu lên Trời, các môn đệ lòng ngập niềm vui (x. Lc 24, 50-53) mang đến cho chúng một sứ điệp lữ hành trong hy vọng.
Hình ảnh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta dưới dạng “Con Chiên đứng (thẳng) như đã bị tế sát” (Kh 5,5) thực sự trở nên niềm hy vọng tuyệt đối cho chúng ta. Dầu “bị tế sát”, nhưng vẫn “đứng thẳng”. Nên dầu gian khổ, hay gặp bao thử thách, bị giằng co, xâu xé và thậm chí bị bách hại, con cái Chúa vẫn cảm thấy ứa trào sức sống và niềm vui của Đấng Phục Sinh để thốt lên trong hy vọng: “Marana Tha! Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến” (Kh 22,20).
Hành hương trong hy vọng
Chúa Giêsu Kiô niềm hy vọng của chúng ta”: thực vậy, Người là đích điểm cuộc hành hương của chúng ta, và chính Người là đường để chúng ta bước đi.
Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào sự sống của Chúa Kitô, nghĩa là chúng ta hy vọng phục sinh và được chia sẻ vinh quang của Người. Chúng ta cũng sẽ theo Người đến cùng Chúa Cha khi kết thúc cuộc sống trần gian này. Lễ Chúa lên Trời là sự kiện phản ánh rõ nhất về niềm hy vọng của chúng ta, người hành hương hy vọng đang tiến về nhà Cha.
Là những người sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi không ngừng tin vào Chúa Kitô và sống khác với những người chưa biết đến Chúa Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở cùng chúng ta và Người đang dẫn chúng ta đến cuộc sống đời đời. Người chỉ cho chúng ta đường lên Trời của Người, đường Giêsu. Chúng ta phải tránh những cám dỗ, sợ hãi, hoảng loạn và thất vọng. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”(1 Tx 4,13). Ở đây chúng ta cũng thấy một dấu hiệu riêng biệt của các Kitô hữu là họ có tương lai. Đức cố Giáo hoàng Bênêdictô XVI viết: “Không phải là họ biết chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết một cách chung chung rằng cuộc sống của họ sẽ KHÔNG KẾT THÚC trong sự trống rỗng. Chỉ khi tương lai chắc chắn là một thực tế tích cực thì mới có thể sống tốt trong hiện tại” (x. BENEDICTO XVI, Spe Salvi, số 2).
Chính khi tin vào Chúa Kitô mà chúng ta sống an bình và hy vọng trong mọi hoàn cảnh, vì sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Ngay cả khi cái chết đến với chúng ta, chúng ta vẫn thanh thản trong niềm hy vọng cuối cùng là được lên Trời sống đời đời với Chúa. Đó là ý nghĩa của cuộc sống người tín hữu chúng ta.
Xin Chúa khơi dậy nơi chúng ta lòng ái mộ những sự trên Trời. Trên hết, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, Đấng, qua Mẹ Giáo Hội, đã sinh chúng ta vào sự sống đời đời, sự sống của Chúa Giê-su, niềm hy vọng của chúng ta. Cậy trông vào Mẹ Maria, Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, phù hộ cho chúng ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng.
Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời, như thế chúng ta hy vọng sẽ được về Trời với Chúa. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
==========
Suy niệm 3: VẮNG MẶT nhưng LUÔN HIỆN DIỆN
“Đang khi chúc lành, thì Chúa Giê-su rời khỏi các ông và được rước lên trời” (Lc 24,51). Con Thiên Chúa xuống thế làm người, cứu chuộc nhân loại, giờ đây trở về trời, rút lại sự hiện diện thể lý đối với các môn đệ. Tuy nhiên, vắng mặt thể lý ấy không có nghĩa là chấm dứt hiện diện. Đức Giê-su đã phục sinh khải hoàn từ cõi chết và giờ đây lên trời; Ngài vượt trên mọi giới hạn của thời gian, không gian và nơi chốn. Ngài không còn ‘đầu đội trời, chân đạp đất’ như con người nữa, nhưng Ngài luôn hiện diện với chúng ta mọi nơi trên trái đất này.
Cũng biết rằng, sự hiện diện thể chất chưa hẳn là tất cả. Thật vậy, đôi bạn có gần gũi nhau về mặt thể lý mà không gặp gỡ nơi tâm trí thì cuộc sống họ vẫn xa cách, cô đơn như những vỏ sò trên bãi biển, bị sóng đánh trôi dạt. Mặt khác, người ta lại rất gần dù xa cách nhau hàng ngàn dặm trường. Khi vắng mặt, chúng ta nhìn nhau bằng phương cách mới mẻ, và có thể thừa nhận giá trị thật của nhau tốt hơn. Nếu chúng ta hiện diện trọn vẹn với ai đó, thì cho dù vắng mặt đi chăng nữa, thì sự hiện diện và kể cả sự vắng mặt của chúng ta cũng mang lại nhiều ơn ích.
Đức Giê-su lên trời chẳng phải là chuyến đi ra ngoài không gian, nhưng đúng hơn là cuộc hành trình về nhà Cha. Trong suốt sứ vụ tại thế, với bản tính con người, Ngài chỉ có thể ở một nơi và trong một thời gian hay không gian. Nhưng giờ đây, Ngài hiệp nhất trọn vẹn với Chúa Cha, nên Ngài hiện diện bất cứ nơi nào Thiên Chúa hiện diện, nghĩa là khắp mọi nơi, không còn bị bó buộc vào không gian, thời gian hoặc nơi chốn nữa, “quả thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9,24).
Là Ki-tô hữu hôm nay, chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa qua nhiều phương thế và cách thức như: đọc-suy niệm Kinh Thánh, tham dự Thánh lễ , lãnh nhận các Bí tích, sống bác ái-tha thứ và trở nên chứng tá qua đời sống đức tin. Đức Giê-su đã tín nhiệm các Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê-a, Sa-ma-ri-a cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8), và giờ đây kêu mời chúng ta tiếp bước sứ mạng rao truyền Tin Mừng, cũng như làm chứng cho sự hiện diện sống động của Ngài trong trần gian này: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,48).
Truyền thuyết cổ xưa được thuật lại rằng: Khi Đức Giê-su hoàn tất sứ vụ dưới thế, Ngài trở về trời và Tổng lãnh Thiên thần Ga-bri-el ra nghênh đón. Gặp Chúa Giê-su, Thiên sứ vui mừng hỏi ngay: “Xin Chúa cho chúng con biết công trình của Ngài sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế ạ?” Chúa Giê-su liền đáp: “Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhóm môn đệ và các người phụ nữ nhiệt thành. Ta cũng đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất rồi!” Nghe thế, Thiên sứ Ga-bri-el dường như chưa hoàn toàn thỏa mãn, bèn hỏi tiếp: “Nhưng số môn đệ ít ỏi ấy thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?” Chúa Giê-su mỉm cười, biểu lộ sự đồng tình với Thiên sứ, nhưng Ngài vẫn quả quyết: “Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ”. Thật vậy, tác gỉả thư gửi cho tín hữu Do Thái đã nhắc nhở: “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23). Nói cách khác, Chúa đã tín nhiệm các Tông đồ, các môn đệ và chúng ta sứ mạng trở nên chứng tá của Ngài bằng lời nói, bằng cách tuyên xưng đức tin (cụ thể: sống đức tin, giải thích đức tin và bảo vệ đức tin), bằng việc làm (gương sống tốt lành, thánh thiện, sống bác ái yêu thương, tha thứ, rộng lượng bao dung, mở lòng đón nhận anh chị em,…) như Thoreau (1817-1862, nhà văn, thi sĩ và triết gia thực tiễn người Mỹ) đã khẳng khái: ‘Chớ bao giờ khuyên bảo điều gì mà bạn không thể làm gương về điều đó’.
Hơn nữa, chúng ta có thể làm chứng tá cho Chúa qua đời sống thường nhật. Cây cối, hoa lá, chim chóc làm chứng cho sự sống bằng chính sự tồn tại, hiện hữu của nó. Qua vẻ đẹp phong phú, nét giản đơn đa dạng của chúng, ai ai cũng có thể nhận ra sự cao quý, tài tình, quyền năng của Đấng Tạo hoá. Cha Albert Peyriguère người Pháp (1883-1959, sống ẩn tu tại dãy núi Atlas, Mô-rô-cô) đã viết: “Nhiều môn đệ nói về Đức Ki-tô, nhưng Ngài lại muốn có những môn đệ quyết sống vì Ngài”. Tương tự, ơn trở nên chứng tá cao quý nhất chính là việc ‘hiến mạng sống mình vì bạn hữu’. Chắc hẳn đây chẳng phải là con đường êm ái, dễ dàng, mà đòi hỏi sức mạnh, can đảm và tính kiên định, nhẫn nại không ngừng. Trong lịch sử của Giáo hội hoàn vũ nói chung và Giáo hội Việt Nam nói riêng, gương chứng tá đức tin sống động của các Thánh tử đạo là minh chứng hùng hồn.
Sau cùng, xin mượn truyện kể ngắn này thay cho lời kết: Nhìn thấy một thổ dân Phi Châu đang chăm chú đọc sách, một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua liền hỏi anh ta đọc gì? Người thổ dân ấy trả lời: “Tôi đang đọc Kinh Thánh”. Nhà buôn nhoẻn miệng cười nói: “Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi!” Nghe vậy, Anh thổ dân đáp: “Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi”.
Lm. Xuân Hy Vọng
==========
Suy niệm 4: TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU
Anh chị em rất thân mến, chúng ta đã cùng Giáo hội hân hoan mừng đón Chúa Phục Sinh và giờ đây giống như mười một Tông đồ, có lẽ chúng ta lòng cũng buồn rười rượi, bịn rịn phải nói lời chia tay với Chúa Giê-su vì hôm nay Ngài lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Nhưng thiết nghĩ nỗi buồn này được lấp đầy với niềm vui chan chứa, và ngôn từ chia tay này được thay thế bằng lời trấn an đầy xác tín của Chúa Giê-su Ki-tô với các môn đệ và với mỗi người chúng ta: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20). Các bài đọc hôm nay chúng ta vừa nghe, đặc biệt trình thuật ngắn gọn của Thánh Sử Mác-cô về sự kiện Chúa Thăng Thiên cho thấy: Mác-cô không đơn thuần thuật lại chuyện Đức Giê-su được đưa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, mà còn nhắn nhủ mỗi người chúng ta hãy nhớ “bài sai” của Chúa Giê-su gửi cho mọi người tin nhận vào Ngài: “Các con hãy đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16, 15-16). Nói cách khác, mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi và được sai đi làm chứng nhân cho Chúa tình yêu trong mọi hoàn cảnh sống, mọi thời đại và mọi lãnh vực.
Trước tiên, chúng ta nên tự hỏi: ai là chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu? Và chứng nhân cho Chúa là người như thế nào? Thông thường, anh chị em nghe quý cha, quý sơ, quý thầy được nhận bài sai đi truyền giáo, phục vụ ở nơi này hay nơi khác, ở quê hương hay trên một vùng đất xa lạ nào đó, chứ ít ai nghe giáo dân được sai đi?!! Nghĩ vậy cũng là điều dễ hiểu, nhưng chúng ta nên biết rằng: khi được chịu Bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên người thuộc về Chúa Ki-tô (Ki-tô hữu), người được thông phần vào sứ vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Ngài; còn nữa, chúng ta cam kết từ bỏ mọi âm mưu đen tối của tội lỗi, ma quỷ và hứa sống tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa qua việc sống đức tin và làm chứng cho Chúa qua đời sống hằng ngày. Như vậy, chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu chính là mỗi một người Ki-tô hữu chúng ta, là những người được khắc sâu trong tâm khảm mình ấn tín thánh thiêng không bao giờ phai mờ, là người mặc lấy thánh danh Ki-tô hay là người mang tên Ki-tô hữu. Trong bài đọc I trích sách Công Vụ Tông Đồ, Chúa Giê-su khẳng định: các tông đồ sẽ được lãnh nhận sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên các ông. Bấy giờ các ngài sẽ là chứng nhân của Thầy Chí Thánh Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê-a, Sa-ma-ri-a cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). Chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu là người được Thánh Thần thúc giục, nâng đỡ, ban sức mạnh, can đảm, quả quyết, dũng cảm, dám ra khỏi con người yếu đuối, sợ sệt, nhút nhát của mình, vứt bỏ những thú vui trần tục, thói quen đam mê mà dám tuyên xưng vào Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao ban Con Một yêu dấu của mình để cứu độ con người tội lỗi (x. Ga 3, 16). Còn gì đẹp hơn, cao cả hơn tình yêu của một Thiên Chúa trao ban chính sự sống mình cho chúng ta, dù chúng ta bất xứng, vô ơn!
Như vậy, anh chị em chúng ta phải khẳng định một điều: đã là người Ki-tô hữu, tất cả chúng ta đều là chứng nhân của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta sẽ làm chứng cho ai và cho điều gì? Một câu hỏi dường như không cần thiết và có lẽ hơi dư thừa, nhưng nếu nhìn vào cuộc sống gia đình, lịch sử bản thân, những thăng trầm, và bước ngoặt lớn trong đời sống đức tin của mỗi người, chúng ta sẽ nhận ra: lắm lúc chúng ta không làm chứng cho Chúa tình yêu và cho Chân lý. Lý do thì ôi thôi vô số, hơn cả 1001 lý chứng để biện hộ, biện minh hay giải trình. Thay vì làm chứng cho Chúa Ki-tô đã yêu thương tôi, đã chết cứu chuộc tôi, tôi lại làm chứng cho “cái tôi”, cho “bản ngã” tự kiêu của mình. Thay vì làm chứng cho lòng thương xót, lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa dành cho tôi, tôi lại làm chứng cho sự cứng nhắc, hành vi lên án và ghen ghét đối với chính mình và đối với tha nhân. Thay vì làm chứng cho cử chỉ khoan dung, chờ đợi và vòng tay rộng mở của Chúa dành cho con người tội lỗi như tôi, tôi lại làm chứng cho lối suy nghĩ kết án, xua đuổi và tách biệt của mình đối với anh chị em trong cộng đoàn; và còn vô vàn nhiều điều khác mà đáng lẽ chúng ta phải làm chứng, nhưng vì sự yếu đuối, chúng ta đã nhiều lần thỏa hiệp với điều bất chính hoặc chỉ lo cho tư lợi cá nhân. Là con cái Chúa, chúng ta phải sống trong sự thật, làm chứng cho chân lý, nhưng lắm lúc chúng ta lại làm chứng gian. Chính vì nhận biết con người thật mỏng manh, yếu đuối và dễ sa ngã như vậy, Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ chúng ta qua bài đọc II trích thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô: “Anh em được ban thần khí khôn ngoan và mạc khải để nhận biết Người. Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh...” (Ep 1, 17-18). Lời nguyện xin của thánh Phao-lô cho tín hữu Ê-phê-sô cũng chính cho mỗi người Ki-tô hữu chúng ta. Thật không sai khi chúng ta nhận mình yếu đuối, nhưng với ơn Chúa, chúng ta trở nên can đảm làm chứng cho Ngài. Chẳng chút gì sai khi chúng ta nhận biết mình mù quáng trước lợi danh, tiền, tài, tình, tham vọng và đam mê, nhưng với Thần khí khôn ngoan, đôi mắt tâm hồn của chúng ta sẽ trở nên sáng suốt, can trường đứng về phía chân lý và làm chứng nhân cho tình yêu đích thật, làm chứng tá cho Thiên Chúa.
Anh chị em rất thân mến, chúng ta đã biết mỗi một người chúng ta được Thiên Chúa mời gọi trở nên chứng nhân cho tình yêu Chúa và cho chân lý. Tuy nhiên, sống trong một thế giới đầy chuyển biến như ngày nay, chúng ta phải sống chứng tá như thế nào? Một niềm vui an ủi chắc chắn cho các Tông đồ, cho Giáo hội và cho chúng ta, đó là: mặc dù Chúa Giê-su vinh hiển lên trời, nhưng Ngài luôn đồng hành, ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bằng chứng cụ thể, mỗi ngày Ngài hiện diện qua bí tích Thánh thể, trao ban chính sự sống Ngài cho chúng ta. Trong mọi phút giây, những khi ta quỵ ngã vì phạm tội, Ngài đồng hành với chúng ta qua bí tích Hoà giải để ban ơn tha thứ và bình an cho ta. Khi ta ốm đau bệnh tật phần hồn cũng như phần xác, Ngài đỡ nâng và cảm thông với ta, v.v...Những cảm nghiệm này, tiên vàn các Tông đồ là nhân chứng hùng hồn nhất “...phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo” (Mc 16, 20). Trong đời sống mục vụ và truyền giáo ở xứ sở hoa anh đào này, con cũng được nhiều anh chị em chia sẽ: làm sao sống giữ vững đức tin ở đất nước phồn thịnh Nhật Bản này; làm sao sống chứng tá cho Tin Mừng và rao truyền Nước Chúa cho những người chưa tin nhận Chúa, v.v...Và câu chuyện đó luôn kết thúc bằng bốn chữ “khó lắm cha ơi!”. Thật sự, bản thân con cũng đồng cảm với quý ông bà, anh chị em, nhưng cũng nên khẳng định một điều: “khó không có nghĩa là không thực hiện được”. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng bắt đầu làm chứng tá cho Chúa từ những việc làm bé nhỏ nhất, cử chỉ yêu thương, vị tha, sống hài hòa và hiệp thông với nhau. Và rồi từ tình yêu thương trong cộng đoàn dù bé nhỏ ấy sẽ như hương hoa lan tỏa khắp nơi. Hơn nữa, nếu chúng ta luôn tin tưởng rằng: chúng ta không ‘đơn thân độc mã’ sống chứng tá cho Tình yêu, nhưng các anh chị em khác đang cùng với ta và nhất là Chúa Ki-tô Phục Sinh luôn đồng hành, nâng đỡ ta trên bước đường trở nên nhân chứng Tình yêu như tâm tình trong một bài hát sinh hoạt “Phao-lô trồng, A-pô-lô tưới, Thiên Chúa sẽ cho mọc lên. Tôi trồng, anh tưới, Thiên Chúa cho bông lúa vàng”.
Với niềm tin xác tín vào Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa đã chịu chết cho nhân loại vì tình yêu. Và hôm nay Ngài lên trời, về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài luôn ở cùng chúng ta cho đến ngày tận thế, chúng ta xin Chúa giúp sức cho mỗi người biết ý thức, can đảm trở nên chứng tá cho tình yêu mà Ngài đã dành cho chúng ta.
Chung lời ngợi khen Chúa Con,
Hân hoan thờ kính sắt son một niềm.
Ứng viên của Chúa tình yêu
Nhiệt tâm nhiệt huyết, đìu hiu xa rời,
Gần gũi, gắn bó đầy vơi
Nghị lực Thần khí, biển trời cậy trông.
Hoạt động hăng say vun trồng,
Ân sủng chan chứa tình nồng thánh ân
Người người chung sức tảo tần,
Ra đi làm chứng, xếp vần yêu thương. Amen.
Lm. Xuân Hy Vọng
==========
Suy niệm 5: Chính Anh Em Là Chứng Nhân
Hai môn đệ trở về làng Emmaus, lúc được gặp gỡ Chúa Phục Sinh suốt hành trình mà không biết. Sau khi được Chúa Giêsu giải thích những lời Thánh Kinh, rồi đến cuối đường họ được “mở con mắt”, thay đổi hoàn toàn, tức tốc hăng hái trở về Giêrusalem để làm chứng với Nhóm Mười Một. Hai ông khoe tin vui sốt dẻo lạ lùng, kỳ diệu, họ hồ hởi kể rằng mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người “bẻ bánh”.
Chúa luôn đi bước trước để giúp chúng con nhận ra, gặp gỡ Chúa rồi trở thành chứng nhân của Chúa: “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 47-48). Suốt ba năm, các ông chỉ đi theo Thầy, trực tiếp cận kề học tập bên Thầy. Giờ đến lúc Thầy không còn trực tiếp dạy dỗ các ông, giờ là lúc các ông phải tự “thực hành thực tế” trong khi Thầy “vắng mặt”. Các ông phải “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền”. Đây là trọng trách lớn lao và thật khó khăn vất vả, nhất là khi không thuận tiện, trong cái chật hẹp, tối tăm của đời các môn đệ cũng như mỗi chúng con hôm nay. Nhưng chính Thầy sẽ thực hiện những điều lớn lao kỳ diệu nơi con người mỏng giòn yếu đuối của mỗi chúng con.
Trong trình thuật biến cố thăng thiên hôm nay, nơi sách Công vụ trong bài đọc I, Đức Giêsu đã căn dặn những người ở lại: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân được của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,7-8). Sự kiện Chúa về trời là bước ngoặt đánh dấu sự bắt đầu trưởng thành của các môn đệ. Sự kiện này cũng đánh dấu sự hiện diện vô biên của Chúa trong cuộc đời của các môn đệ, trải dài đến chúng con hôm nay và cho đến tận thế.
Chúa ơi! trước khi về trời Chúa đã trao cho chúng con sứ vụ “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” của Chúa. Lạy Chúa! sức chúng yếu lắm, lòng người đời thì cứng cỏi, nhưng chúng con tin Chúa sẽ ở cùng và ở với chúng con trong mọi nơi mọi lúc. Để dù khó khăn hay gian nguy, chính Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu trong con người hèn mọn yếu đuối chúng con, cho muôn dân nhận biết Chúa và đi theo Ngài. Amen.
Én Nhỏ
==========
Suy niệm 6: CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Kinh Thánh hôm nay khép lại Tin Mừng Luca bằng hình ảnh thật đẹp và linh thánh: Đức Giêsu giơ tay chúc lành và được cất lên trời. Một cử chỉ cuối cùng – nhưng chất chứa trọn vẹn cả một đời yêu thương và hiến trao. Từ máng cỏ Bêlem đến đồi Canvê, từ ngôi mộ trống đến đỉnh núi Thăng Thiên – cả cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình dâng hiến và trao ban: trao ban Lời Ngài, trao ban chính Mình Ngài, trao ban cả Thánh Thần của Ngài, và cuối cùng là trao ban sứ mạng cho chúng ta.
“Anh em là chứng nhân của những điều ấy” (Lc 24,48). Ngài không chọn thiên thần, không chọn những người hoàn hảo, nhưng chọn chúng ta, những người còn yếu đuối, nhưng dám tin, dám sống, dám lên đường. Các tông đồ và những đấng kế vị đã thực hiện sứ mạng đó, và Giáo hội Chúa đã có mặt hầu hết các quốc gia. Đức tin của chúng ta được xây dựng trên chứng tá của các ngài, và biết bao vị tử đạo đã hiến cả mạng sống để loan báo Tin Mừng. Ngày nay, lời mời gọi ấy vẫn còn nguyên tính cấp bách. Chúa vẫn mời gọi từng người chúng ta: “Con hãy làm chứng cho Thầy giữa lòng thế giới.”
Không thể gói gọn cuộc sống đức tin của mình bằng những lời kinh hay thánh lễ trong nhà thờ; cũng không thể bó hẹp đời sống Kitô hữu của mình vào trong cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu, mà cụ thể là phải đi vào đời, hòa mình vào dòng chảy của nhân loại, để hạt Tin Mừng được gieo vào lòng con người. Chẳng ai có thể lên thiên đàng một mình nếu không sống tình liên đới và quan tâm đến phần rỗi của người khác. Điều này đòi ta phải ra khỏi mình để hướng đến anh chị em lương dân xung quanh. Phải thăm viếng, gặp gỡ, gần gũi, chia sẻ, nâng đỡ, và cứu giúp những anh chị em neo đơn, nghèo khổ, yếu đau, tật nguyền.
Mỗi người chúng ta có một vị trí riêng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai thay ai được. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 48, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta: “Hãy lên đường, hãy cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Kitô… Tôi muốn thấy một Giáo Hội bị bầm giập, tổn thương và lấm lem trên đường dấn thân, chứ không phải là một Gíao hội 'xanh xao vàng vọt' vì sống đóng khung và bám víu vào chu vi hàng rào an toàn của riêng mình”… “Các con hãy ra đi, không sợ hãi, để phục vụ”.
Tuy Chúa Giêsu về trời không còn hiện diện cách hữu hình, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách vô hình trong Lời Kinh Thánh, trong Bí tích Thánh Thể, và trong cuộc đời của những ai sống gắn bó với Ngài, như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở lại với anh em cho đến ngày tận thế” (Mt 28, 17-20). Lời Chúa là ánh sáng và Mình Chúa là sức sống cho chúng ta trên hành trình làm chứng.
Có một câu chuyện như sau: Ở một ngôi làng Phi Châu nhỏ, người ta thấy một người đàn ông bại liệt, mỗi sáng đều bò ra khỏi nhà, lết đến nhà thờ, ngồi bên ngoài, rồi lết về. Người ta hỏi ông: “Ông đến để làm gì? Ông không nghe được, không nói được, không vào được.” Ông viết lên bảng: – “Tôi chỉ đến để nhắc mình và người khác rằng Thiên Chúa là trung tâm đời tôi.” Không nói một lời. Nhưng cuộc đời ông là lời chứng hùng hồn.
Mỗi người chúng ta – dù ở đâu – dù thế nào, cũng phải trở nên một Tin Mừng sống động. Và đôi khi, chúng ta là “cuốn Phúc Âm duy nhất” mà người khác có thể đọc được. Chúng ta không cần làm điều phi thường để làm chứng cho Chúa. Chỉ cần chúng ta:
· Không gian dối giữa một xã hội đầy gian dối.
· Không nói hành nói xấu giữa đám người ngồi lê đôi mách.
· Không bỏ cuộc trước thử thách, nhưng kiên trì trong cầu nguyện.
· Không cần nổi tiếng, chỉ cần trung tín mỗi ngày.
· Không cần nói nhiều, chỉ cần sống hiền lành, yêu thương, khiêm nhường, tha thứ…để tỏa ra hương thơm của Chúa Giêsu.
Thực tế có nhiều người trong chúng ta đang là những nhân chứng âm thầm: một người cha không bỏ bê gia đình dù cực khổ, mà còn đi lễ hằng ngày; là một người mẹ thức khuya dậy sớm lo cho con mà vẫn không ngừng lần chuỗi; một cụ già cô đơn bệnh tật mà vẫn âm thầm cầu nguyện cho con cháu mỗi ngày… Những người đó – Chúa thấu suốt. Chính họ đang giữ cho Giáo Hội đứng vững giữa trần gian.
Chúa Giêsu lên trời, không để rời xa nhân loại, nhưng để mở ra một niềm hy vọng, một chiều kích mới cho cuộc sống trần thế. Trời mới đất mới không chỉ là một hứa hẹn mai sau, mà đã bắt đầu từ hôm nay trong từng việc nhỏ: khi chúng ta xây dựng một xã hội công bằng hơn, chân thật hơn, huynh đệ hơn, bác ái hơn… để đón mừng ngày Chúa quang lâm. Đó cũng là ngày mà chúng ta được về trời vinh hiển với Chúa, sau khi hoàn thành sứ vụ của mình với cả tình yêu mến.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã về trời,
nhưng Chúa vẫn hiện diện giữa trần gian,
trong Bí Tích Thánh Thể mãi tuôn tràn,
là chính Chúa thần lương cho tín hữu.
Chúa về trời nhưng Lời Ngài còn đó,
dẫn con qua những thử thách trần gian,
cho cuộc sống khỏi lạc bến mê man,
và tim con vững vàng trong ánh sáng.
Chúa về trời nhưng ban Thánh Thần xuống,
để giữ gìn che chở Giáo Hội luôn,
giúp con biết hành động trong sự thật,
đem an bình ích lợi cho thế nhân.
Chúa về trời nhưng hiện diện khắp nơi,
qua mọi người mọi biến cố nhỏ to,
nhất là qua những con người nghèo khó,
mời gọi con biết ý thức chăm lo.
Chúa gọi con đi vào lòng thế giới,
gieo Tin Mừng đến với mọi tha nhân,
để đời con là thánh lễ nối dài,
cho ơn Chúa ngày càng sinh hoa trái.
Chúa về trời mở ra sự sống mới,
đó chính là sự sống mãi muôn đời,
trong niềm vui và hạnh phúc chẳng vơi,
cho chúng con niềm hy vọng sáng ngời.
Xin cho con vững một lòng tin cậy,
để hăng say xây dựng cuộc sống này,
và chờ ngày Chúa đến trong vinh quang,
cho đoàn con được hưởng phúc thiên đàng. Amen.
Lm. Thái Nguyên
==========