Thứ năm, 25/04/2024

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật III Phục Sinh

Cập nhật lúc 07:39 14/04/2021
Suy niệm 1
Tương quan giữa hữu hình và vô hình
Lc 24, 35 - 48
Tranh cãi về những lần hiện ra
Sau khi chết trên thập giá, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần với các môn đệ và bạn bè của Ngài. Nhưng ngày nay người ta tranh cãi về những lần hiện ra đó, không biết có thật như vậy không ? Họ lập luận rằng:
- Các chuyện kể không thống nhất với nhau và rất khó mô tả niên đại về các sự kiện. 
- Chúa Giêsu đã không hiện ra với các môn đệ của Ngài như đã viết. Đó chỉ là một cách nói, để mô tả mối tương quan vô hình giữa các môn đệ và Chúa Giêsu. Các môn đệ nhận được sức mạnh khiến họ tin rằng trong Chúa Giêsu, sự sống mạnh hơn cái chếtHọ không nhìn thấy gì hơn chúng ta, là những người tin rằng Thần Khí của Chúa Giêsu, đó là Chúa Thánh Thần vẫn ở lòng nhân loại và đẩy lùi các thế lực của cái chết ở trong nhân loại.
Dù tất cả các tường thuật về những lần Chúa Giêsu phục sinh hiện ra khó thiết lập trình tự thời gian, chúng ta vẫn khẳng định rằng đó thực sự là Chúa Giêsu mà các môn đệ biết trước khi chết. Chúa Giêsu này có thân xác như họ, họ thấy Ngài còn sống sau khi chết. Tất cả đều mô tả các tông đồ rất kinh ngạc và sợ hãi, ít nhất là lúc đầu. 
Tin mừng hôm nay nói: họ "rất ngạc nhiên và sợ hãi, họ bối rối tưởng mình thấy ma”. Chúa Giêsu phải cho họ thấy thân xác của Ngài: “Ngài đưa tay chân cho họ xem…Ngài ăn một mẩu cá nướng và một tảng mật ong”.
- Chúa Giêsu là Đấng đã chết nhưng đang sống. Ngài đã sống lại trong thân xác của Ngài.
- Ngài không phải là thiên thần hay một bóng ma.
- Chính Chúa Giêsu, người mà họ biết đã sống sau đó đã chết - người mà hôm nay thực tế đang sống trước mặt họ. 
- Chúa Giêsu, sau khi sống lại, vẫn là một người như họ...
Trong Chúa Giêsu, đó là tất cả bản tính nhân loại  đã trải qua từ cái chết đến sự sống.
Ở giữa hai: từ hữu hình đến vô hình và từ vô hình đến hữu hình
- Không ai trong chúng ta được ở bên cạnh Chúa Giêsu như các tông đồ trên các nẻo đường của Palestina. 
- Không ai trong chúng ta có mặt khi Chúa Giêsu chết trên Thập giá và được mai táng. Theo một cách nào đó, chúng ta dễ dàng tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh hơn họ. Họ phải trải qua thời gian Chúa hiện ra với họ từ khi Chúa phục sinh đến khi Chúa lên trời để dần dần họ mới có thể tin rằng, nhờ Chúa Giêsu, cái chết đã bị đánh bại.
Chúa Giêsu đã nói với họ sau khi ăn cá nướng và mật ong: "Đúng như lời Thầy đã nói với anh em, khi Thầy còn ở với anh em..." Chúa Giêsu phục sinh thực sự ở với họ ngày hôm đó. Tuy nhiên Ngài cũng nói thời gian Ngài còn ở với họ. Vào ngày lễ lên trời, Ngài nói với họ: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". 
- Mùa Phục sinh, đó là thời gian những lần Chúa Giêsu hiện ra để củng cố đức tin của các tông đồ. Nhưng sẽ đến ngày họ không còn cần nhìn thấy Chúa Giêsu vì họ trở thành một thân thể với Ngài. 
- Mùa gian Phục sinh là thời gian họ phải sống với con người hữu hình của Chúa Giêsu và với sự sống vô hình của Ngài, Ngài sẽ làm cho họ sống động mỗi ngày tiếp theo đó.
Chúng ta có thể nghĩ rằng các tông đồ cần phải có thời gian vượt qua này từ hữu hình đến vô hình. Nhưng chúng ta, những người không sống với Chúa Giêsu trong cuộc sống trần gian của Ngài, chúng ta có quan tâm đến thời gian phải vượt qua này không? Giống như họ, chúng ta không cần phải bỏ dần cái hữu hình để đi vào cái vô hình của đời sống Chúa Giêsu trong chúng ta. Nhờ đức tin, chúng ta luôn sống trong Chúa. Đối với chúng ta là những tín hữu, chúng ta có Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể chứng tỏ rằng Chúa Giêsu hiện diện nhiệm mầu giữa chúng ta.
Như vậy, phải chăng chúng ta cũng không cần Chúa phải hiện ra với chúng ta? Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu cho họ thấy những vết thương của Ngài: đó là những vết thương Ngài phải chịu do sự bất công, ngu ngốc và ham muốn quyền lực của con người. Ngài nói với chúng ta: ngày nay Ngài vẫn luôn có một thân xác trên trái đất này. Đó là thân xác của người bệnh, tù nhân, người vô gia cư và người bị loại trừ. “Tôi đói các người đã không cho tôi ăn, tôi mình trần các ngươi đã không cho tôi mặc, tôi ở tù các ngươi đã không viếng thăm…”
Chúng ta có thói quen tốt xông hương Mình Thánh Chúa Kito trên bàn thờ, chúng ta thích cầu nguyện trước Thánh Thể Chúa. Nhưng chúng ta đừng quên những lời này của thánh Gioan Kim Khẩu: "Bạn muốn tôn vinh Thân Thể Chúa Kitô không?" Đừng coi thường Ngài khi Ngài trần truồng. Đừng chỉ tôn vinh Ngài ở đây, trong nhà thờ  khi mà bạn để Ngài ở ngoài phải chịu đựng cái lạnh và thiếu quần áo. "
Thánh Gioan Tông đồ cũng đã viết: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”.
Là một con người, chúng ta liên hệ giữa cái hữu hình với cái vô hình. Hơn nữa là người tin, chúng ta càng phải thấm nhuần điều đó trước cái bí tích: bí tích là dấu chỉ bên ngoài dẫn tới điều bên trong, từ cái hữu hình dẫn đến cái vô hình và từ cái vô hình hướng tới điều cụ thể. Đó là sống đạo cụ thể trong đời sống hằng này sau khi tham dự các bí tích.
Linh mục Gioan Đặng Văn Nghĩa
======================
Suy niệm 2
Lc 24, 35 - 48
Để hiểu tâm và ý của Chúa trong bài Tin Mừng này, chúng ta phải duyệt lại lịch trình của ngày Chúa Phục Sinh.
Khi hừng đông vừa ló rạng, thì Chúa Phục Sinh. Cửa mộ lật ra và đổ xuống cái rầm. Lính gác mộ thấy Chúa từ trong mộ đi ra, thì bỏ chạy về báo tin cho Thượng tế. Thượng tế quýnh quáng hết đường xoay xở, đành đút lót thật nhiều tiền cho bọn lính để chúng ra phố nói dối dân chúng là ngôi mộ trống, vì đệ tử của Chúa ăn trộm xác giấu đi. Kế đó, Chúa hiện ra với Mácđala khi bà đang ngồi khóc tỉ tê bên mộ trống. Tiếp đó là hiện ra với các bà phụ nữ trên đường về, sau khi thấy ngôi mộ trống.
Trưa hôm ấy, hai môn đệ đi Emmau. Trong bữa cơm tối Chúa cho họ biết là Chúa sống lại rồi. Họ vội trở về Giêrusalem kể lại chuyện này cho 10 Tông đồ, Tô ma vắng mặt. 12 anh em đang nhâm nhi lai rai với nhau, thì Chúa hiện hình. Họ sợ quá la lên “ma”.
Một người đàn ông sợ ma, thì có thể bỏ qua. Một tập thể đàn ông ít nhất là 12 người mà sợ ma, thì không thể tha được. Nhưng tại sao họ lại sợ đến như thế? Đó là vấn đề ta phải suy nghĩ.
Suốt ba năm bỏ gia đình đi theo Chúa, hy vọng Chúa làm vua, thì mình sẽ làm quan. Ai ngờ Chúa bị giết oan, chết đau, chết nhục. Chúa chết để đệ tử trắng tay: nhục ơi là nhục. Không những trắng tay, mà còn đang bị đe dọa khủng khiếp, vì lính canh mộ đang tuyên truyền ngoài phố rằng “bọn đệ tử Giê su ăn trộm xác Thầy giấu đi”. Từ chết đến chết. Chúa chết mà không sống lại, thì môn đệ khổ cực kỳ. Chúa mà sống lại, thì cái khổ của môn đệ là siêu cực kỳ. Nếu Chúa không sống lại, thì lấy mo bịt mặt năm sáu tháng là xong. Nhưng Chúa mà sống lại, thì cơ chế Do Thái giáo sẽ đày đọa đệ từ cho đến đời con, cháu, chắt. Tinh thần các Tông đồ sụp đổ hoàn toàn!
Chúa phải xin các Tông đồ chia cho một khúc cá nướng, ăn nhóp nhép với các ông y như khi Ngài còn sống, để các ông tin Chúa sống lại thật. Khi họ đã tin Chúa sống lại thật, Chúa trích dẫn Kinh Thánh Cựu Ước để minh chứng rằng: Đấng Cứu Thế phải chịu gian khổ, phải chết đau chết nhục. Sống khổ và chết nhục như thế là chuyện bình thường. Nhưng Phục sinh mới là chuyện lớn.
Điều quan trọng Chúa muốn nói ở đây, đó là Chúa sẽ ban ơn Thánh Thần. Ơn Thánh Thần là khôn ngoan và can đảm. Chúa dặn dò là phải cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần. Có ơn Thánh Thần đã rồi mới bung ra, đem Tin Mừng đến cho toàn thế giới.
Linh mục Piô Ngô Phúc Hậu
=====================
Suy niệm 3
Nhận ra Chúa nơi người đời
Lc 24, 35-48
Hôm ấy, đang khi các môn đệ họp nhau trong phòng, Chúa phục sinh bất thần hiện ra giữa các ông. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là ma!
Chúa Giê-su phải dùng đủ cách để tỏ cho họ biết Ngài đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma.
Trước hết, Ngài cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Ngài đã thực sự bị đóng đinh vào thập giá, nay sống lại.
Vì họ vẫn còn nghi ngờ không tin nên Ngài đề nghị họ sờ tay chân Ngài để biết chắc Ngài có xương có thịt chứ chẳng phải là ma.
Thế nhưng họ vẫn còn hoài nghi, nên Ngài lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vầy.
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn vận dụng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Ngài là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Nhờ đó, các môn đệ mới tin là Chúa Giê-su đã sống lại thật.
Rất khó nhận ra Chúa đang hiện diện nơi người chung quanh
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì dù được giáp mặt Chúa Giê-su mà vẫn không nhận ra Ngài. Nhưng xét lại, chúng ta cũng đáng trách không kém vì hằng ngày Chúa Giê-su phục sinh vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng biết.
Qua thánh Phao-lô, Chúa Giê-su dạy chúng ta biết rằng Ngài đang sống, đang làm việc, đang hiện diện nơi những người chung quanh, vì họ là chi thể, là tay chân Ngài. Thánh Phao-lô viết:
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15).
Chúng ta nghĩ rằng Chúa là đấng rất cao cả, còn bao người chung quanh chỉ là người phàm yếu hèn mang đầy tội lỗi, nên thật khó chấp nhận họ là thân mình của Chúa.
Vì thế, thánh Phao-lô nhấn mạnh lần nữa: “Anh em là thân thể Đức Ki-tô và mỗi người là một bộ phận” trong thân mình Ngài (I Cr 12, 27).
Vì chúng ta là một phần trong thân mình Chúa Giê-su, nên Chúa Giê-su thật sự hiện diện nơi mỗi người chúng ta.
Chính Chúa Giê-su cũng khẳng định rằng Ngài đang hiện diện nơi người đói khát bần cùng, ai cho người đói miếng cơm manh áo là cho Ngài ăn, cho Ngài mặc; Ngài hiện diện nơi những người đau yếu nên ai thương xót cứu giúp người đau yếu là giúp đỡ chính Ngài… và khi ta làm gì cho những người chung quanh là làm cho chính Chúa Giê-su vì Ngài đang ở trong họ (Mt 25, 40).
Chúng ta đã nghe Chúa dạy điều nầy nhiều lần, nhưng dường như ít người chấp nhận sự thật Chúa truyền.
Vì thế, khi nghe tin có Chúa hay Đức Mẹ hiện ra ở đâu đó thì rất nhiều người đổ xô tìm đến để bái lạy, tôn thờ; vậy mà khi nghe chính Chúa Giê-su nói rằng Ngài đang hiện diện thực sự nơi người ăn xin nghèo đói đang cần cơm cháo, đang hiện diện nơi những bệnh nhân đau khổ đang cần chăm sóc… thì chẳng mấy ai đoái hoài. Sở dĩ không đoái hoài là vì người ta chưa tin vào lời Chúa dạy, chưa đón nhận sự thật khó hiểu này.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã sống lại và đang hiện diện nơi những người chung quanh chúng con, nơi người cha người mẹ, nơi người bạn trăm năm, nơi người cùng lối xóm... Chúa đang đồng hành với chúng con, cùng làm việc, cùng sinh hoạt trong một mái nhà, một xưởng máy… với chúng con. Vậy mà chúng con không nhận ra Ngài nên tỏ ra thờ ơ hờ hững với Ngài.
Xin khai mở con mắt tâm hồn để chúng con nhận ra Chúa nơi người chung quanh và tận tình yêu thương, phục vụ Chúa nơi những người đó. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
=================
Suy niệm 4

BÌNH AN CỦA CHÚA KI-TÔ PHỤC SINH

Trong xã hội đầy chuyển biến, thế giới với biết bao nhiêu nhiễu nhương, mâu thuẫn giữa các quốc gia, giữa các châu lục, nhất là thời điểm dịch bệnh ngày càng gia tăng, hơn ai hết, con người chúng ta cần đến sự bình an tâm hồn thật sự, cần đến tình yêu mến, lòng tương thân tương trợ, và đoàn kết vượt qua cuộc khủng hoảng chung này.
Đối với mỗi người, được bình an trong đời có thể khác nhau ở cách diễn tả, khác nhau cách biểu lộ, cũng như những biểu hiện của nó. Tuy nhiên, với người Công giáo chúng ta, sự bình an thật sự nơi tâm hồn không gì khác chính là được kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô Phục Sinh, và được cảm nghiệm niềm vui Phục Sinh mà chính Ngài đã mang lại cho chúng ta trong đời sống thường nhật, qua việc tham dự bàn tiệc Thánh, qua việc đọc-suy gẫm Lời Chúa, qua việc cầu nguyện không ngừng mỗi ngày, qua việc bác ái, tha thứ, chia sẻ với tất cả mọi người, nhất là những ai túng thiếu kể cả về vật chất cũng như tinh thần.
Khi ngẫm suy các trình thuật Kinh Thánh về Chúa Phục Sinh, chúng ta biết rằng: sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Ki-tô thấu tỏ nỗi bất an trong tâm hồn, tâm trí của các môn đệ. Ngài biết rõ sự sợ hãi, e dè, nhút nhát sâu kín nơi họ. Ngài hiểu thấu các ông đang trong tình cảnh tinh thần sa sút, thái độ bỏ cuộc, tâm lý ‘nhắm mắt đưa chân’ thà về quê làm lụng vất vả còn hơn ở lại Giê-ru-sa-lem với tâm thế bị dằn xé, hồi tưởng thời khắc Thầy mình chịu khổ hình nhục nhã, rồi bị đóng đinh trên thập giá như một tên tử tù! Chính vì vậy, mỗi lần hiện ra với các ông, điều Ngài làm trước hết, chẳng phải nhắc lại chuyện cũ, hoặc than phiền trách móc vì sự bỏ mặc, chạy trốn của các ông, mà là trao ban bình an từ chính Ngài, Đấng đã chiến thắng sự chết, chiến thắng bức tường ngăn cách cuối cùng trên dương gian mà mỗi con người sớm muộn gì cũng phải đối mặt, “bình an cho các con, Thầy đây, đừng sợ!” (Lc 24, 36). Nói cách khác, Chúa Giê-su rất ư tâm lý, Ngài chỉ muốn lấp đầy con tim, tâm trí các môn đệ với sự yên hàn, an bình thật sự mà thôi.
Thế nhưng, với bản tính yếu đuối con người, các môn đệ chưa ra khỏi tình trạng bối rối, hoang mang, thậm chí mơ tưởng, nghi ngờ, không dám tin vào đôi mắt bản thân đang được nhìn thấy Thầy mình đã sống lại, hiện diện trước mặt. Sự bất an nơi tâm hồn kéo theo vô vàn hệ luỵ trong đời. Tương tự như các Tông đồ, mỗi lúc bất an, bất ổn, chúng ta thường rơi vào tình cảnh rối bời, lo âu, mất niềm tin, trở nên ngờ vực, đa nghi…, và nếu cứ để hoài như vậy, thì chúng ta sẽ chẳng thể nào cầu nguyện được, chẳng thể nào làm việc, hay sinh hoạt ở bất cứ bậc sống nào, kể cả đời sống tu trì, đời sống gia đình, cũng như đời sống thường ngày. Hiểu rõ điều này, nên sau khi chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Ki-tô Phục Sinh cho họ tương tác thân tình như Ngài đã từng hiện diện trực tiếp, cùng đi, cùng sống với các ông trong ba năm ròng rã đó đây rao truyền Nước Trời, “hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây” (Lc 24, 38); ngoài ra, “Người ăn trước mặt các ông, và đưa phần còn lại cho họ” (Lc 24, 43). Người mà các ông kề cận, thân tình trước kia, giờ đây vẫn với thân hình ấy, với đôi mắt nhân ái ấy, với đôi tay, đôi chân bị đóng đinh ấy, người mà đã cùng ngồi chung, ăn uống với các ông…chứ đâu phải một người nào khác xa lạ. Thật sự, khi tảng băng bất an tan chảy, nhường cho sự tin tưởng, kết thân tình, tương tác mến thương, thì đây chính là kết quả của bình an đích thật chân chính, mà Chúa Ki-tô Phục Sinh trao ban.
Kế đến, niềm bình an Chúa Ki-tô Phục Sinh được toả lan, sưởi ấm cái lạnh giá, khô cứng, đóng băng trong tâm hồn các môn đệ, và hơn hết, mở đôi mắt, mở đôi tai, mở lòng trí các ông ra, ngõ hầu biết đón nhận, am hiểu Kinh Thánh: “đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh” (Lc 24, 44). Thế nên, dần dần tâm hồn các ông được tràn đầy sự bình an của Chúa Ki-tô, tâm trí các ông được khai sáng, hiểu ra sứ mệnh của Thầy mình, đó là: phải chịu tử nạn, nhưng ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại (x. Lc 24, 47). Và khi đã được thấm nhuần, các môn đệ can đảm ra đi làm chứng cho Thầy Giê-su. Điển hình, Thánh Phê-rô trở nên chứng tá cho Chúa Ki-tô Phục sinh: “Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Ki-tô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ" (Cv 3, 18-19). Nói cách khác, khi được đón nhận sự bình an đích thật của Chúa Ki-tô Phục Sinh, các môn đệ ‘chiến thắng chính bản thân’, chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, vì tin chắc: Chúa Ki-tô Phục Sinh đang hiện diện, đang cùng sống, đang cùng đi với các ngài, nên chẳng cần lo chi! Theo Thánh Gio-an, “…thì chúng ta có Đức Giê-su Ki-tô, Đấng công chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian” (1Ga 2, 1-2)
Sau cùng, chúng ta cũng được mời gọi đón nhận sự bình an nơi Chúa Ki-tô Phục Sinh, và can đảm ra đi chia san với hết mọi người trong mọi lĩnh vực, mọi thời, mọi nơi như Lời Chúa nhắn nhủ chúng ta: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 48).
Chúa Ki-tô Phục Sinh
Đem an bình khắp nơi
Nào ta hãy nhớ Lời:
Loan truyền người muôn nơi. Alleluia. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

====================
Suy niệm 5
CHỨNG NHÂN

Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nỗi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm hân hoan vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Vui Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.
 
Tin mừng hôm nay kể chuyện, hai môn đệ nhận ra Chúa cho nên như mọc thêm cánh bay về Giêrusalem, loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, khi đó chính Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (c 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (c 40). Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (c 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng, Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).
 
Chúa Phục Sinh xuất hiện như người mục tử đứng giữa đàn chiên vừa gom về. “Bình an cho anh em”.Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Chúa phải ổn định tinh thần các ông, ban bình an để làm cho tâm trí các ông bình tĩnh mà sáng suốt nhận định rõ ràng. Rồi Chúa các ông thấy vết đinh ở tay, chân của Chúa, cho các ông sờ để thấy đúng là Chúa,Đấng có xương có thịt vẫn ở giữa các ông. Chúa còn cho thêm một dấu hiệu khác nữa là ăn trước mặt các ông. Ăn cho thấy để chứng minh Chúa sống lại có thân xác như người thật. Chúa ăn là để cho các môn đệ yên lòng và thấy rằng Ngài sống lại thật rồi. Một hành động tức thời và rất tâm lý của Chúa là ăn để đảm bảo rằng mình đang sống. Chúa ăn để minh chứng rằng Chúa sống và Ngài vẫn là “một” trước khổ nạn cũng như sau sống lại…Ma thì không có thân xác nên không thể ăn được. Chỉ những ai còn sống mới biết đói biết khát. Chỉ những ai đói mới đòi ăn và khát mới đòi uống. Chúa Phục Sinh không phải vì đói mà xin ăn, nhưng chính là để chứng minh cho các môn đệ biết rằng Ngài đã sống lại.Một người sống thì đứng được, đi được, nói được, ăn được. Chúa cho các ông tất cả các bằng chứng ấy để nhận biết chính là Chúa đang sống và đứng giữa các ông.
 
Sau khi các môn đệ vững tin, Chúa dạy dỗ các ông. Ngài nhắc lại những lời đã nói khi còn ở giữa các ông liên quan tới sự ứng nghiệm mọi lời chép về Chúa trong Cựu ước. Trên đường Emmau, Chúa giải thích cho hai môn đệ “tất cả những gì liên quan đến Người trong Sách Thánh”, bây giờ Chúa tóm tắt nội dung gồm hai phần:sứ mạng của Chúa và sứ mạng của các môn đệ. Chúa đã hoàn thành sứ mạng của Chúa. Bây giờ đến phiên các môn đệ phải thi hành sứ mạng của mình. Chúa đã chết và phục sinh đem lại ơn tha tội. Đến phiên các môn đệ phải rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Họ phải rao giảng với tư cách là chứng nhân. Để thực thi sứ vụ này, các môn đệ phải lãnh nhận Thánh Thần là quyền năng từ trên cao ban xuống.
 
Trong bài đọc 1, thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv 2,41).
 
Bài đọc 2, thánh Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi hãy làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống, đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa còn là yếu tố quyết định để xác định tính chân thực của người môn đệ Chúa Kitô.
 
Đức Giêsu Phục Sinh đã làm nhiều cách để chứng minh rằng Ngài đã sống lại thật. Thánh Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu thế hệ tín hữ nối tiếp đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Các ngài làm chứng nhân bằng việc từ bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quảng đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính mạng sống.
 
Ngày nay, chúng ta làm chứng về Chúa Phục Sinh bằng cách thuật lại cho người khác về cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu; bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua môi miệng chúng ta; bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái; bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin
 
Xin Chúa cho chúng con biết chuyên chăm năng học hỏi Lời Chúa hằng ngày, biết lắng nghe Lời Chúa khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con ngày càng lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con biết chu toàn sứ mệnh Chúa trao cho Hội Thánh: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

=====================
Suy niệm 6

Chúa giải thích Kinh Thánh và bẻ bánh 
( Lc 24, 35 – 48 )

Sự kiến Chúa Giêsu phục sinh được các Thiên Thần loan báo cho các bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê  (x. Lc 24, 1 - 12), các bà về thuật lại cho các Tông Đồ ở Galilêa, hai môn đệ làng Emmaus trong nhóm các bà chẳng những chưa tin mà còn lo sợ (x. Lc 24). Chúa Giêsu Phục Sinh tiếp tục hiện ra dưới dáng dấp của một người lữ hành, tỏ ra không biết, rồi đồng cảm với hai ông, đã dùng Kinh Thánh để giải thích, bẻ bánh trước mặt hai ông, giúp lòng họ sốt sáng lên và làm cho mắt họ sáng ra để nhận ra Người (x. Lc 24, 13 - 35).

Trở lại Giêrusalem, hai ông thuật lại cho các Tông Đồ trong khung cảnh cửa đóng then cài. Đang lúc đứng bàn chuyện, Chúa Giêsu hiện đến với họ khiến họ kinh hoàng khiếp sợ "bối rối tưởng mình thấy ma" (Lc 24, 37).

"Bình an cho các con ! Thầy đây, đừng sợ" (Lc 24, 36). Đó là lời cầu chúc đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh, kèm theo là những chứng tích ở tay chân với những vết thương, họ "vẫn còn chưa tin" (Lc 24, 41). Chúa phải nghĩ đến cách ăn cá nướng và mật ong, trích dẫn luật Môisen, lời các tiên tri và Thánh Vịnh là những bằng chứng không thể sai lầm về sự phục sinh và cuộc sống mới của Chúa. Chính Chúa thực hiện những lời Sách Thánh đã chép, và tiếp theo bằng miệng : "Chính Thầy đây" (Lc 24, 39), đúng Thầy là sự thật và là sự sống. Đó là lý do tại sao các tông đồ, những người ban đầu nghi ngờ, thậm chí khi nhìn thấy cơ thể sống của Chúa cũng chưa tin đã trở nên những chứng nhân rao giảng về sự sống lại của Chúa cách hùng hồn (x. Cv 4).

Lời Chúa sưởi ấm con tim

Giả bộ khách đồng hành, tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của hai môn đệ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện, nghe họ bộc bạch về đau khổ và thất vọng cũng như đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngóm. Thấy họ buồn sầu như thế, Chúa nói chuyện với hai ông và  "giải thích" Kinh Thánh, "bắt đầu từ Môsê và các tiên tri", giúp họ hiểu rằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ðấng Cứu Thế đã được thấy trước trong chương trình của Thiên chúa và được loan báo trước trong Thánh Kinh (x. Lc 24, 27). Như thế, Chúa đốt cháy lên trong con tim họ một ngọn lửa hy vọng. Khi đó hai mộn đệ cảm thấy một sức thu hút ngoại thường nơi con người bí mật ấy và mời Người ở lại với họ chiều hôm đó : "Mời ông ở lại với chúng tôi", lý do "vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn " ( Lc 24, 29 ).

Thánh Thể mở mắt đức tin

"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn" (Lc 24, 29 ). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Chúa Giêsu chấp nhận và cùng họ vào nhà và khi ngồi vào bàn Người làm phép và bẻ bánh, thì họ nhận ra Người, nhưng Người đã biến khỏi cái nhìn của họ, để họ lại đầy kinh ngạc. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi " bẻ bánh " đơngiản ( Lc 24, 35 ). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ " chỗi dậy trở về Giêrusalem " ( Lc  24, 33 ) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho " mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp " (Lc 24, 33).

Lời Chúa và Thánh Thể trong đời sống người tín hữu

Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Ðấng Phục Sinh.

Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về "làng Emmaus", quay lưng lại với chương trình của Thiên Chúa, rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus, sau khi đã "nhận ra" Chúa trong việc bẻ bánh, thì mau mắn trở lại Giêrusalem lòng tràn đầy niềm vui, kể cho anh em mình tất cả những gì đã xảy ra.Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh, niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.

Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta: " Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến" ( 1 Cr 11, 26 ). Như thế, chúng  ta phải nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Hãy để cho Lời Chúa sưởi ấm con tim và Thánh Thể Người mở đôi mắt đức tin của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng niềm hy vọng và tình bác ái, để chúng ta có thể đồng hành với các anh chị em buồn sầu và tuyệt vọng, sưởi ấm con tim họ với Tin Mừng, và bẻ bánh tình huynh đệ với họ.

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

===================
Suy niệm 7
Chính anh em là chứng nhân
Cv 3,13-15.17-19; 1Ga 2,1-5a; Lc 24, 35-48

Hai môn đệ thất thểu bỏ về làng Emmaus, nhưng được gặp gỡ Chúa Phục Sinh suốt hành trình mà không biết. Đến cuối đường họ được “mở con mắt”, thay đổi hoàn toàn, tức tốc hăng hái trở về Giêrusalem để làm chứng với Nhóm Mười Một. Trở về căn phòng kín hội tụ, các ông thi nhau kể chuyện phục sinh, bởi niềm vui Tin Mừng phục sinh đang bùng vỡ. Họ báo với hai ông Chúa sống lại thật rồi. Hai ông cũng có tin vui sốt dẻo không kém và còn lạ lùng, kỳ diệu hơn, họ hồ hởi kể rằng mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người “bẻ bánh”. Các ông đang say sưa kể, thì chính Đức Giêsu bỗng đứng giữa các ông mà chúc bình an. Nghe lời chúc bình an từ Thầy mà các ông vẫn kinh hồn bạt vía tưởng là thấy ma, quá nhầm!... Bởi vì cái chết “như tử tội” của Thầy làm cho các ông quá sợ và thất vọng, hãy còn miên man trí não, đến độ không thể tin nổi Thầy lại đang “sống” mà chúc bình an trước mặt. Lại bởi vì có sự khác biệt, khi ông Lazarô hoặc em bé mười hai tuổi được Chúa cho sống lại thì vẫn là thân xác bình thường thân quen y như khi trước (sau này họ vẫn chết), nên người thân vui mừng chứ không sợ hãi. Đằng này Chúa Phục sinh khác hẳn, thân xác sáng láng, không còn phụ thuộc vào thời gian, xuyên qua vật chất dễ dàng như Thiên thần, không cần phải ăn uống, ngủ nghỉ. Giờ Người đã “thuộc thượng giới”: “Anh em hãy hướng lòng về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,2). Mới hay rằng sau này khi được phục sinh với Chúa, chúng con cũng được thuộc về “thượng giới”, giống như Chúa Phục Sinh vậy. Đây là dấu chứng cho niềm tin “xác loài người ngày sau sống lại” của chúng con và càng thêm chắc hy vọng.
Hôm nay Người bỗng “đột nhập” phòng kín mà hiện diện giữa các môn đệ, thì ai mà không sợ hãi ngờ vực mà tưởng là thấy ma? Nhưng Thầy giúp các ông định thần lại, vừa khẳng định vừa cho các ông kiểm chứng: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,38-40). Các ông đã hoàn hồn nhưng còn ngỡ ngàng lắm chưa tin, có lẽ mừng quá thành ra chưa tin nổi một sự thật mà cứ như trong mơ vậy. Người càng làm thân hơn mà hỏi các ông có gì ăn không? Họ đưa Người một khúc cá nướng, Người cầm và ăn liền trước mặt các ông. Bây giờ chắc các ông đã an tâm là chính Thầy mình đang ở giữa họ. Lúc này Người mới giải thích cặn kẽ, cho các ông ôn lại Kinh Thánh qua các sách Luật và Ngôn sứ, Thánh vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Khi còn ở với anh em Thầy đã nói rất nhiều rồi mà giờ vẫn “lơ ngơ”. Họ được Người mở trí cho các ông hiểu rằng Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sống lại.
Chúa luôn đi bước trước để giúp chúng con nhận ra, gặp gỡ Chúa rồi trở thành chứng nhân của Chúa: “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 47b-48).
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Bằng con mắt đức tin, xin Chúa cho chúng con luôn nhận ra, “thấy” và gặp gỡ Chúa. Để qua những biến cố đời thường, chúng con luôn sống trong sự hiện diện của Chúa. Với niềm vui, yêu thương thắm thiết, Chúa sẽ làm cho chúng con trở nên chứng nhân của Chúa từ bản thân, trong gia đình, miền đất chúng con sinh sống và cho tất cả những người chúng con gặp gỡ. Amen.
Én Nhỏ
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Đức Cha Đaminh Hoàng Minh Tiến huấn đức cho quý Thầy Đại Chủng viện Huế
Đức Cha Đaminh Hoàng Minh Tiến huấn đức cho quý Thầy Đại Chủng viện Huế
Chiều ngày 22.04.2024 Đức Cha Đaminh Hoàng Minh Tiến, Giám mục Giáo phận Hưng Hoá, đã viếng thăm và huấn đức cho quý Thầy Đại Chủng viện Huế. Trong bài chia sẻ này, Đức Cha mời gọi các chủng sinh ước mơ và mong muốn trở thành một linh mục thánh thiện.
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: OnIP™ (www.onip.vn - mCMS).
log