Thứ tư, 08/05/2024

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay năm C

Cập nhật lúc 08:12 10/03/2022
Suy niệm 1
Ngọn hải đăng trong đêm
Lc 9, 28b-36
 
Qua câu chuyện Chúa Giêsu biến hình mà Tin mừng hôm nay kể lại, chúng ta có thể đọc được giá trị và mật độ sự biến đổi của chính chúng ta. Vâng, mỗi người chúng ta, nếu nhìn kỹ cuộc sống, cũng có những ngọn núi Tabor lớn nhỏ, những khoảnh khắc rõ ràng và mạnh mẽ không thể quên được. Có những lúc chúng ta chạy trốn tình yêu Thiên Chúa hoặc có những khi Thiên Chúa luôn quan phòng ở bên chúng ta. Giống như một con tàu đang lướt sóng vượt qua một vùng biển động mạnh dữ dội. Đột nhiên trên đỉnh của một làn sóng rất mạnh hơn những cơn sóng khác, xuất hiện ánh sáng cực mạnh của một ngọn hải đăng điều khiển lối đi.
Nhìn thoáng qua, cuộc đời chúng ta có lúc như chìm xuống. Nhưng với đôi mắt mở to, liệu có phải là trong mơ, ngọn đèn pha lại chiếu sáng trong đêm tối sắp chìm không?
- Trong đời sống hôn nhân gia đình, có những lúc tình yêu sáng như ngọn hải đăng, nhưng cũng có khi tình yêu nhạt nhòa chết chìm trong giông bão.
- Trong đời sống tu trì dâng hiến, biết bao lần khủng hoảng về ơn gọi, nhưng có lúc sốt sắng thần tiên trong ngày khấn hoặc ngày chịu chức thánh và kỷ niệm về những ngày đó...
Chúa biến hình trước Cuộc Khổ Nạn là khoảnh khắc ánh sáng phi thường để chúng ta sống trong đêm bình thường trong suốt cuộc đời. Mặc dù có những khó khăn gặp phải, con tim chúng ta vẫn đập và mắt chúng ta vẫn mở bắt nguồn từ một vài khoảnh khắc ánh sáng. Ánh áng vinh quang của Chúa Kitô chiếu qua chúng ta trong tương quan của chúng ta với chính Thiên Chúa.
Một cuốn sách có tựa đề "Thiên Chúa năm đó" . Đó là năm 1886, có những biến cố đáng nhớ: Sự biến đổi của Charles de Foucauld, của Paul Claudel và của Therese Lisieux.
- Đối với chàng trai trẻ Charles de Foucauld. Đó là cuộc gặp gỡ với linh mục Huvelin, trong tòa giải tội vào tháng 10 năm 1886 tại nhà thờ St Augustine, Paris. Anh ta muốn lập luận tất cả những rắc rối của cuộc đời mình theo cách một tay ăn chơi. Cha Huvelin khuyên anh quỳ xuống và thú nhận tội lỗi của mình. Những giọt nước mắt của Charles de Foucauld bắt đầu tuôn xuống. Anh quyết định thay đổi cuộc sống!
- Đối với Therese Lisieux. Đó là sự trở lại trongThánh lễ Đêm Giáng Sinh tại Lisieux. Năm mười một tuổi, khi thấy cha mình càu nhàu về nghĩa vụ tặng quà cho trẻ em, Therese Lisieux chợt nhận ra rằng con đường nhỏ, chính là con đường thơ ấu thiêng liêng, sẽ là con đường lớn lên trong Thiên Chúa. Cũng chính đêm Noel đó, Thiên Chúa ban cho Therese quyết định tình yêu của mình ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Đối với Paul Claudel. Hôm đó Paul Claudel buồn bã. Anh vào nhà thờ Đức Bà Paris. Anh xác định vị trí: "Gần cây cột thứ hai ở lối vào của dàn hợp xướng, bên phải nhà thờ. Và trong khoảnh khắc, sự kiện chi phối toàn bộ cuộc đời tôi xảy ra. Ngay lập tức, trái tim tôi bị đụng chạm và tôi tin. Tôi tin vì một sức mạnh lôi cuốn tôi đến thế, về sự trỗi dậy của tất cả bản thân tôi, về một niềm tin mạnh mẽ đến mức, kể từ đó, tất cả các cuốn sách, tất cả các lý lẽ, tất cả các cơ hội của một cuộc sống biến động không thể làm lung lay niềm tin của tôi”. Claudel là người vô thần trước khi bước vào nhà thờ Đức Bà Paris. Anh là kito hữu, khi ra khỏi nhà thờ mà không thực sự biết ý nghĩa của nó. Nhưng trong tất cả các tác phẩm của anh, anh theo sợi chỉ đỏ của biến động bất ngờ mà anh gọi là ân sủng.
Và còn rất nhiều câu chuyện biến đổi khác...Chúng ta có thể hỏi họ: họ đã bắt đầu một cuộc phiêu lưu tâm linh như thế nào mà không có ai thực sự nhìn thấy từ bên ngoài. Tại sao họ lại làm điều đó? Và họ sẽ nói với chúng ta: ở đâu đó và vào lúc nào đó trong quá khứ của họ, có một ngọn núi Thabor, một ánh sáng mà họ đã thấy một lần. Và một lần là đủ để đi, như Áp-ra-ham, rời đi với một niềm tin chắc chắn sẽ có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu.
Như vậy, chặng đường biến đổi của mỗi người chúng ta có thể đã bắt đầu, đang bắt đầu và sẽ bắt đầu. Có những lúc chìm mình trong giấc mộng thần tiên như Phero, Giacobe và Gioan “xin được dựng 3 lều ở đó”. Tuy nhiên, chúng ta cần phải xuống núi, phải trở về với bình nguyên của cuộc sống thường ngày. Biến đổi của chúng ta là những sự kiện, có thể là tầm thường, hiếm khi phi thường. Nhưng những sự kiện đó luôn được đọc trong đức tin, đọc đi đọc lại, 10 năm hoặc 20 năm sau. Đọc đi đọc lại trong đức tin để tìm được ý nghĩa của những thử thách và chướng ngại bao phủ cuộc đời chúng ta như sương mù phủ trên đại dương, và rồi sẽ vượt qua nhờ ngọn hải đăng chiếu sáng.
Biến đổi không phải là công việc của một khoảnh khắc khá đẹp và mạnh mẽ. Biến đổi phải được thực hiện trong tất cả đời sống chúng ta. Mùa Chay này nhắc nhở chúng ta điều đó. Tình yêu đích thực được sống trong thời gian chứ không phải trong sự lóa mắt của một tình yêu. Nhưng sự lóa mắt đó được trao cho chúng ta để kéo dài mãi. Gustave Thibon nói: “Tình yêu xuất phát từ sự lóa mắt của một tâm hồn không chờ đợi được gì và đóng lại trong thất vọng của một cái tôi đòi hỏi tất cả”. Trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy xin Thiên Chúa mở mắt chúng ta để phân biệt được những ngọn núi Thabor mà Thiên Chúa đã cắm cột mốc trên chặng đường chúng ta đi.! Chớ gì giáo xứ chúng ta cũng có một quyển sách với nhan đề: “Thiên Chúa năm nay trong giáo xứ chúng ta”!
Linh mục Gioan Đặng Văn Nghĩa
================
Suy niệm 2
Lc 9, 28b – 36
Hôm ấy Đức Giê su đưa ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi. Chúa thì cầu nguyện. Còn ba ông thì ngủ lăn lóc. Núi ấy là núi nào? Các giáo phụ thì bảo là núi Taborê, ở cuối xứ Galilê, gần xứ Samari. Các nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay thì cho rằng núi ấy là núi Hermon, ở cực bắc xứ Galilê.
Ba môn đệ đang ngủ mê mệt, bỗng dưng giật mình thức giấc thấy Môsê và Êlia đang hầu chuyện Chúa. Hứng quá, Phêrô đề nghị: “Xin cho chúng con dựng ba lều: một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia. Bỗng có tiếng từ trong mây trời vọng xuống: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Thế là cả ba môn đệ sợ quá, lăn đùng ra chết giấc. Chúa phải đến lay các ông dậy và nhắc “Đừng sợ”.
Bài Tin Mừng cho chúng ta hai bài học:
Bài học 1. Khi Chúa Cha lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Lệnh này không chỉ nhắm chúng ta, mà còn nhắm tất cả các sứ ngôn của Cựu ước, mà Môsê và Êlia là đại diện. Môsê đại diện cho luật. Êlia đại diện cho sứ ngôn. Tất cả các sứ ngôn chỉ là học trò của Đức Giêsu. Đức Giêsu mới là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Gioan Tẩy Giả là sứ ngôn cao trọng nhất của Cựu ước đã thành thật tuyên bố: “Tôi không đáng xách dép cho Đức Giêsu”. Nếu vậy thì Môsê và các sứ ngôn đều không đáng xách dép cho Đức Giêsu. Chỉ có mạc khải trọn vẹn trong Đức Giêsu. Còn Cựu ước chỉ là con đường dẫn đến Đức Giêsu mà thôi. Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Môsê cho phép ly dị. Từ muôn thuở không có như vậy”. Sách Lê vi chương 11 cấm ăn vô số các món ăn gọi là uế. Còn Chúa thì tuyên bố: “Mọi đồ ăn đều thanh hết”. Môsê không cho phép trị bệnh trong ngày Sabát. Chúa phá luật ấy và Ngài cứ trị bệnh tưới hạt sen vào các ngày Sabát.
Sau này trong Công đồng Giêrusalem Thánh Giacôbê đã tuyên bố: “Từ nay người ngoại trở lại đạo khỏi chịu phép cắt bì và không phải giữ luật Môsê”.
Bài học 2. Khi chưa có tiếng nói của Chúa Cha, ba môn đệ vẫn bình thản và hứng khởi. Đến khi nghe tiếng Chúa Cha phán trong đám mây, thì lăn cù ra chết giấc. Tại sao vậy? Tại truyền thống Do Thái dạy: ai trực tiếp nghe hoặc thấy Chúa thì phải chết. Niềm tin ấy ghi sâu vào não và mạch máu của mọi người Do Thái qua mọi thời. Sợ Chúa là một điều có sẵn trong tim của mọi người và mọi thời. Họ đâu có ngờ rằng sợ Chúa là làm nhục cho Chúa. Gioan là người cảm nghiệm được điều đó, nên ông đã phát biểu trong thư thứ nhất của ngài rằng: “Tình yêu loại trừ nỗi sợ. Ai sợ là chưa có tình yêu hoàn hảo”. Đã yêu Chúa thì không còn sợ Chúa. Còn sợ Chúa là chưa yêu Chúa một cách chân chính.
Dường như nỗi sợ vẫn ám ảnh suốt đời ta: sợ cả ma lẫn quỷ; sợ cả hỏa ngục; sợ Chúa phạt; sợ đói khổ; sợ chết… Đó là nếp sống bình thường của gần như mọi người. Các giáo lý viên cũng đem những nỗi sợ này để gieo vào tâm tư thiếu nhi, mong rằng các em vì sợ mà không dám phạm tội. Nghĩ như thế tưởng là đúng, nhưng lại là sai.Charles Péguy một nhà thơ của Pháp, năm 39 mới trở lại, ông đã tuyên bố: “Tôi không sợ hỏa ngục”. Hỏi tại sao, thì ông trả lời: “Chúa không muốn tôi xuống hỏa ngục. Tôi cũng không muốn. Thế thì chắc chắn là tôi không xuống hỏa ngục”.
Linh mục Piô Ngô Phúc Hậu
================
Suy niệm 3
Chúa biến hình để biến đổi ta
(Lc 9, 28b-36)

Nếu như Chúa Nhật thư I Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu chịu Ma Quỷ cám dỗ thì Chúa nhật thứ hai mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng về việc Đức Giêsu biến hình cho cả 3 năm phụng vụ để khích lệ chúng ta bắt chước Chúa Giêsu chống trả Tên Cám Dỗ, cởi bỏ con người cũ, thay hình đổi dạng, mặc lấy con người mới, chết đi cho tội lỗi, sống cho Chúa, để qua cuộc biến đổi này mà trở thành một tạo vật mới với ân sủng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
Abraham được Chúa biến đổi
Nhân loại cũ do Adong kể như đã hư mất vì tội lỗi. Nhưng để biến đổi thành nhân loại mới, Thiên Chúa đã ký kết với Abraham một giao ước dưới dạng một bản giao kèo theo tập tục các chiến binh thời đó: được đóng ấn bằng việc xẻ thịt một bò cái tơ, một dê cái và một cừu đực. Thiên Chúa nhận của lễ Abraham dưới hình dạng ngọn lửa thiêu. Theo giao ước này, nếu Abraham nhận Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ ban cho ông hai điều: một dòng dõi đông đúc và một vùng đất rộng rãi phì nhiêu. Abraham tin và tuân giữ nên ông được như Chúa hứa ban.
Biến đổi như Phaolô
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã từ thuật về sự biến đổi đời ngài khi gặp Đức Kitô Phục Sinh, đồng thời mời gọi họ noi gương ngài biến đổi. Từ một kẻ hung ác bắt bớ Hội Thánh, Phaolô được Chúa biến đổi thành tông đồ hăng say rao giảng Tin Mừng. Ngài viết : “Anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi” (Pl 3,17). Ngài than phiền khi thấy còn nhiều kẻ chưa biến đổi như ngài, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã khóc thương khóc cho số phận của họ, vì nếu họ không biến đổi thì số phận họ sẽ hư vong là chắc. Thánh Phaolô khẳng định: “Quê hương chúng ta là quê trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Pl 3, 20). Ngài cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống khăng khít với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của thánh Phaolô.
Chúa biến hình để ta được biến đổi
Thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia. Việc Chúa Giêsu biến hình là mẫu gương cho mọi người noi theo để cố gắng biến đổi con người cũ thành con người mới. Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta được biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người ; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Trong lịch sử dân Chúa, chúng ta phải nhìn nhận ơn Chúa biến đổi phận người. Cụ thể như Abraham người thành Ur thuộc Mesopotamia đã từ bỏ ruộng vườn, nhà cửa đang ồn định để đi tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn tiến về xứ Canaan. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Chúa đã biến đổi ông thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc.
Phaolô, từ kẻ kiêu căng cuồng tín biệt phái, hung hăng bắt đạo, được biến đổi thành người Tông đồ Dân ngoại dễ mến dễ thương.
Lịch sử Giáo hội còn ghi nhận nhiều cuộc biến đổi khác. Có những vị từ gái giang hồ biến đổi thành thánh nhân, từ kẻ khô khan đến người sốt mến, từ người tham lam, hà khắc trở thành người rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xẩy ra trong Giáo hội.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

================
Suy niệm 4
Phẩm giá cao quý
Lc 9, 28-36

Trong sinh hoạt hằng ngày, Chúa Giê-su sống bình dị như mọi người, không bày tỏ thần tính của mình ra; vì thế, người đương thời chỉ nhận biết Đức Giê-su là người phàm, chứ không biết Ngài cũng là Thiên Chúa.
Thế rồi, qua việc Chúa Giê-su bày tỏ dung mạo uy nghi, sáng láng, vinh hiển của Ngài trên núi cao, ba môn đệ Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê mới phát hiện ra căn tính của Đức Giê-su: Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng cao cả tuyệt vời, ẩn mình dưới hình hài con người bình dị.
Việc Chúa Giê-su hiển dung trên núi giúp chúng ta biết được hai điều quan trọng nầy:
Thứ nhất, Ngài không chỉ là người phàm mà còn thực sự là Thiên Chúa, được Thiên Chúa Cha xác nhận trước mặt ông Mô-sê, Ê-li-a và 3 môn đệ rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.”
Thứ hai, qua việc bày tỏ dung nhan sáng láng, vinh hiển của mình, Chúa Giê-su cũng tỏ cho biết rằng những ai tin và bước theo Ngài, sẽ được chung phần vinh hiển với Ngài như thế, đúng như lời dạy của thánh Phao-lô được trích đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay: “Ngài sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3, 21).
Chúa biến đổi chúng ta nên vinh hiển cách nào?
Dù chúng ta mang kiếp bụi trần, thân phận mỏng giòn yếu đuối, vậy mà Chúa Giê-su đã dùng Bí tích Thánh tẩy để nâng chúng ta lên, cho chúng ta được tái sinh để trở thành người con chí ái của Thiên Chúa Cha, được trở nên đền thờ cao cả của Chúa Thánh Thần. Vinh hiển biết bao!
Không những thế, Chúa Giê-su còn tháp nhập chúng ta vào Thân mình Ngài, cho chúng ta trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài! Hạnh phúc biết chừng nào!
Và một khi trở thành một chi thể trong Thân thể Chúa Giê-su, sự sống của Thiên Chúa ba Ngôi, là sự sống rất cao vời, viên mãn, không bao giờ lụi tàn… được thông ban cho chúng ta, tựa như nhựa sống từ thân nho chuyển sang cành nho, để chúng ta được sống đời đời với Chúa!
Và qua Bí tích Thánh thể, Chúa Giê-su ban thịt máu Ngài cho chúng ta lãnh nhận, để nhờ đó, chúng ta được nên một với Chúa Giê-su, đồng huyết nhục với Ngài và nhờ đó, được sống vĩnh cửu với Ngài.
Đây là những hồng ân vô giá Chúa tặng ban, nhờ đó, “Ngài biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3, 21).
Bảo toàn phẩm giá cao quý của mình
Được Thiên Chúa ban tặng diễm phúc lớn lao như thế, chúng ta phải hết lòng cảm tạ tri ân và tuyệt đối không bao giờ để cho mình suy thoái, đánh mất phẩm chất tuyệt vời.
Về vấn đề nầy, thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng khuyên dạy chúng ta như sau:
“Hỡi các Ki-tô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn. Giờ đây bạn đã được thông phần bản tính Thiên Chúa, đừng để mình bị thoái hóa qua việc trở lại với lối sống bất xứng đã qua. Bạn hãy nhớ Ai là Đầu của bạn và bạn là chi thể của Thân Mình nào. Hãy nhớ rằng bạn đã được cứu thoát khỏi quyền lực tối tăm, đã được đưa vào trong ánh sáng và Nước Thiên Chúa.
Nhờ Bí tích Thánh tẩy, bạn đã trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần. Bạn đừng xua đuổi Vị Khách quý trọng như thế do những hành động xấu xa của bạn, đừng để mình lại rơi vào ách nô lệ ma quỷ, vì giá chuộc bạn là chính Máu Đức Ki-tô. (Trích bài giảng của Thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng).
Lạy Chúa Giê-su,
Từ địa vị thấp hèn, Chúa nâng chúng con lên bậc con Thiên Chúa, trở nên chi thể của Chúa, nên đền thờ Chúa Thánh Thần. Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ nếp sống cũ đầy tội lỗi và bất xứng, để bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời cao đẹp xứng tầm người con Thiên Chúa. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

==============
Suy niệm 5
HƯỚNG NHÌN LÊN ĐỨC KI-TÔ

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo hội vẫn tiếp tục sứ mạng trở nên chứng tá cho lòng nhân từ, xót thương và đầy yêu thương của Chúa qua mỗi ngày, đặc biệt Mẹ Giáo hội cùng với chúng ta nhận bụi tro trên đầu, ý thức thân phận yếu hèn, dễ sa ngã của bản thân. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi bước vào thời kỳ ân sủng của Mùa Chay, hướng chúng ta trở về với Chúa, lắng nghe Lời Người và tái khám phá vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ, tôn kính.
Trước hết, Thiên Chúa - Đấng mãi giữ lời: Ab-ra-ham tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, mặc dù chưa biết đích đến là đâu. Ông vâng nghe và thực hiện ngay những gì Người phán truyền, thậm chí chịu hy sinh sát tế đứa con được ân ban. Nhờ vào niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, mà Ab-ra-ham đã chẳng từ chối điều gì, và ông sẵn sàng làm theo thánh ý Chúa. “Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22, 16-18). Xuyên suốt dòng lịch sử dân tộc Is-ra-el, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Ab-ra-ham mà phán rằng: “Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-Cập cho đến sông Êu-phrát” (St 15, 18), và đã thực hiện tất cả những gì Người phán hứa. Thiên Chúa hằng trung thành, tín trung, giữ trọn lời của Người, không những dành cho dân Is-ra-el, mà còn trao ban dồi dào cho chúng ta qua Con Một yêu dấu của Người.
Thứ đến, Thiên Chúa - Đấng hằng bênh đỡ: Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?…Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta” (x. Rm 8, 31. 34). Thiên Chúa không chỉ giữ lời phán hứa, mà còn luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ chúng ta, dẫu ta chẳng xứng đáng với Người. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là: chúng ta cho rằng Thiên Chúa đương nhiên phải chăm nom, coi sóc ta; trong khi đó chúng ta vẫn mãi mê với tư lợi, với dự định cá nhân, mà chẳng đoái hoài đến lời kêu mời, thúc giục của Người mỗi ngày, hầu hân hoan thực thi Lời Người, và sống chính trực, yêu thương, tha thứ như Người giáo huấn chúng ta qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức Thánh, qua mọi biến cố cuộc đời. Điều này đã từng xảy ra thời Thánh Phao-lô Tông Đồ, đến nỗi ngài phải thốt lên: “…giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Đức Ki-tô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này” (Pl 3, 18-19). Thế nhưng, nhờ Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, hằng luôn bênh đỡ, nên chúng ta “sẽ được Người biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người…” (x. Pl 3, 21).
Sau cùng, Thiên Chúa - Đấng luôn hiển dung: Trước khi lên Giê-ru-sa-lem chịu tử nạn, Đức Giê-su đã biến hình, tỏ ra cho ba môn đệ thân tín biết vinh quang của Người. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận thấp hèn con người, mà vâng phục thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá, nhưng từ cõi chết, Người phục sinh. Mầu nhiệm khổ nạn-chịu chết-phục sinh (thường được gọi là biến cố cuộc đời Đức Ki-tô - Christ-event) được tái diễn hằng ngày trong đời sống đức tin của chúng ta, nhất là: trong Thánh lễ, khi tham dự các Bí tích, khi sống Lời Chúa, khi chúng ta sống bác ái, tha thứ. Nhờ đó, Chúa hiển dung nơi cung lòng chúng ta, trong cộng đoàn, hội nhóm chúng ta, trong gia đình và mọi mối tương quan của chúng ta, giúp chúng ta biến đổi cung cách sống, lối sống, tất cả các phương diện con người chúng ta. Tuy nhiên, để cảm nghiệm trọn vẹn điều này, tiên vàn, chúng ta phải ghi nhớ lời Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Lc 9, 35; x. Mc 9, 7); cụ thể: chúng ta phải tháp nhập vào Đức Giê-su, phải nương náu, sống với Người, ở lại trong Người, ngõ hầu mọi lời nói, hành vi, tư tưởng,…của Đức Giê-su tỏ lộ rõ rệt nơi chúng ta.
Lạy Thiên Chúa - Đấng trung tín
Xin cho con luôn nhủ mình tín trung
Giữ trọn lời Chúa đến cùng
Sống trong hoan lạc thuỷ chung tinh tuyền.
Lạy Thiên Chúa - Đấng mãi liên
Hằng bên đỡ dù triền miên ngày tháng
Che chở con tình chứa chan
Luôn chính trực, đời bình an thiết tha.
Lạy Thiên Chúa - Đấng ngợi ca
Mặc lấy xác phàm, bao la tin yêu
Chịu khổ hình Thập tự treo
Phục sinh vinh thắng, sống theo Cha hiền.
“Đây là Con Ta tinh tuyền,
Vâng nghe Người dạy, mãi liên thi hành”. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

=================
Suy niệm 6
Chiêm Ngưỡng Nhan Chúa

Muốn theo sau Chúa thì cũng phải đi cùng một con đường, không có “xa lộ” song song, không có “cầu vượt” dành cho các môn đệ. Biết là các môn đệ không dễ gì chấp nhận nổi “thập giá” nên Chúa muốn cho ba người đại diện thoáng thấy vinh quang phục sinh của Chúa. Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó, những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Chúa Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Chúa Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Chúa Giêsu.
Đưa các môn đệ lên đỉnh núi Tabor, Chúa Giêsu cho họ chiêm ngắm vẻ đẹp của thế giới thần linh, sau đó Người đưa các môn đệ xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Sọ.
1. Núi Tabor
Sách Thủ lãnh kể chuyện: Theo lệnh của Đêbôra, một nữ ngôn sứ, làm thủ lãnh xứ Israel, “Ông Barắc từ núi Tabor đi xuống với 10.000 quân theo sau” (Tl 4,14) để đánh bại Giavin, vua Canaan, trị vì tại Khaxo. Đó là một trong những trận đánh do người Israel phát động nhằm chinh phục đất Canaan. Quân Israel chiếm đóng vị trí chiến lược này và tướng Xixôri dù có 900 chiến xa, không dám leo lên núi để tấn công quân Israel được. Barắc đánh bại quân thù, còn các chiến xa bị sa lầy (x.Tl 4,12-24).
Flavius Joseph, viên chỉ huy lực lượng Do thái ở Galilê, ngay từ đầu cuộc nổi loạn chống lại đế quốc Rôma vào năm 66 đã mô tả thành luỹ của núi Tabor.Nhiều pháo đài bao quanh ngọn núi, những vết tích còn thấy được, không hữu dụng bao nhiêu, vì thiếu nước nên dân chúng phải đầu hàng quân Rôma.
Những nhà thờ xuất hiện trên núi Tabor vào đầu thế kỷ thứ V. Tu viện được các tu sĩ Biển Đức xây dựng vào thời Trung Cổ nhằm chống lại các cuộc tấn công của Saladin. Tuy nhiên, các tu sĩ bị bắt buộc phải bỏ đi sau khi Hattin đại bại vào năm 1187. Tất cả cửa nhà đều bị vua Beybara san thành bình địa. Mãi đến thế kỷ thứ XVII, các tu sĩ Phanxicô mới thu hồi và khôi phục lại.
Được xây dựng vào năm 1991, nhà thờ Chính Thống giáo Hy lạp Thánh Êlia mọc lên trên những vết tích thời Trung Cổ. Vương Cung Thánh đường Hiển Dung được thánh hiến vào năm 1924, là tác phẩm của kiến trúc sư Antôniô Barluzzi. Vương Cung Thánh Đường này nổi tiếng nhờ mặt tiền có hai tháp to lớn nối với nhau bằng một vòng cung theo kiểu Byzantin. Các cây cột chia bên trong thành 3 gian, gian giữa có một bức tranh khảm đá kể lại ước muốn của Thánh Phêrô xây dựng ba cái lều: một cho Chúa Giêsu, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia. Các cha dòng Phanxicô cũng xây một tu viện hoành tráng và một cơ sở xã hội kế bên Vương Cung Thánh Đường.
Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
2. Biến hình
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.
Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).
Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Chúa hiển dung trên núi Tabor là một sự kiện đặc biệt. Ông Môsê tiêu biểu cho Lề Luật, ông Êlia tiêu biểu cho các Ngôn Sứ, cả hai đến chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa đang tỏ hiện nơi Đức Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa, cả hai cùng đàm đạo với Chúa Giêsu, Đấng mà “Lề Luật và các Ngôn Sứ” đã loan báo. Sự kiện này trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Kỷ niệm ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
3. Nghe Lời Người
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Muốn vâng nghe lời ai đó, trước hết phải tin vào người đó. Tin một ai thì phải hiểu biết về người ấy, phải có mối liên hệ thân thiết với người ấy. Muốn tin Chúa, chúng ta phải hiểu biết và sống tương quan mật thiết với Ngài. Nhờ Lời Chúa, chúng ta được hiểu biết về Ngài và được lớn lên trong niềm tin. Nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ, hiểu biết và kết hiệp với Chúa ngày càng thân mật hơn, đức tin sẽ vững vàng hơn. Có tin mới yêu và nghe lời người mình yêu. Chúa Cha muốn chúng ta phải vâng nghe Lời Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Ngài. Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.  
Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cả cuộc sống luôn quy chiếu suy nghĩ hành động theo Chúa Giêsu. Để có thể vâng nghe lời Chúa Giêsu, chúng ta phải gặp Ngài khi dự thánh lễ, khi đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày.Nhờ đó cuộc đời chúng ta sẽ biến đổi, dung mạo sẽ đổi khác. Vâng nghe Lời Chúa, dung mạo chúng ta sẽ ngày càng thân thiện hơn, bình an vui tươi hạnh phúc hơn.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

Lm.Giuse Nguyễn Hữu An

================
Suy niệm 7
Chúa  Hiển  Dung

St 15,5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9, 28b-36

Tuần trước Thầy báo cho môn đệ biết trước cuộc thương khó Thầy sẽ phải chịu, các ông không hiểu, Phêrô thì không chấp nhận nổi nên can ngăn, bị Thầy mắng là “Satan…”. Hôm nay Thầy kéo ba môn đệ được yêu hơn (trong đó có Phêrô) đi riêng lên một ngọn núi cao, cho cả ba chiêm ngưỡng thước phim có một không hai: “Thầy biến đổi hình dạng”! Sướng quá các ông quên hết sự đời! Vẫn cái ông Phêrô nhanh nhảu nói vu vơ mơ mộng trong mê sảng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Lc 9,33). Chỉ “dựng lều” cho ba nhân vật trong “bức tranh tuyệt mỹ” này thôi, còn các ông thì cứ say ngắm thế này đã đủ, chả còn thiết sự gì nữa… Thế đấy, ai thấy khổ mà chẳng bàn lùi tránh né, thấy sung sướng oai phong thì ôm mơ dệt mộng chẳng muốn xa rời.
Khi chìm đắm chất ngất trong lúc cầu nguyện, ở trên núi (cảnh đất trời gần nhau), trong giây phút xuất thần, Thầy trở nên rực rỡ tuyệt trần. Ngày xưa lúc Môsê cầu nguyện gương mặt ông cũng bừng sáng lên. Hôm nay được lên núi cầu nguyện với Thầy, các ông được sung sướng ngất ngây, được chiêm ngưỡng vinh quang Thầy, trực diện với bậc Ngôn Sứ vị vọng trong lịch sử cứu độ, đàm đạo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy, cuộc Tử Nạn mà Thầy đã loan báo. Phêrô hôm nay được nghe và xem thấy tận mắt. Đang say mê với cảnh thiên đường, bỗng từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha xác nhận và kéo các ông trở về thực tại: “Đây là Con Ta , Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35b). Ở lại chiêm ngắm Thầy biến hình thì dễ, nhưng phải thực hành vâng nghe lời Người là điều khó hơn nhiều, phải từ bỏ mình, vác thập giá, đi vào con đường hẹp, liều mất mạng sống…
Biến cố hiển dung của Thầy nhằm củng cố đức tin cho các môn đệ, trước khi bước vào thử thách trong cuộc thương khó. Nhưng sự hăng hái này không còn tới ngày mà khuôn mặt Thầy đầy mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu, ngày xem thấy khuôn mặt đầy thương tích của Thầy trên đồi Sọ. Sau này Phêrô đã làm chứng rằng: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người.” (2Pr 1,16-18).
Chúa ơi! ngày nay chúng con có đủ can đảm xuống núi làm chứng cho Thầy giữa những tối tăm trong cuộc sống thực tại, bằng những điều mình từng “thấy” khi được lên núi với Thầy không? Xin Thầy dẫn đưa chúng con vào mối tình gắn bó keo sơn với Thầy, để trong Thầy, chúng con được biến đổi từ trong ánh mắt, đôi tai, môi miệng, trái tim, để dung nhan sáng láng dịu hiền của Thầy hiện rõ trên khuôn mặt phàm trần của chúng con.

Én Nhỏ

Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Thánh lễ khởi công xây dựng nhà thờ giáo xứ Vân Thê
Thánh lễ khởi công xây dựng nhà thờ giáo xứ Vân Thê
“Viên đá góc tường là chính Đức Ki-tô” (Ep 2,20). Vào lúc 9g00 thứ Hai ngày 06.05.2024, giáo xứ Vân Thê hân hoan chào đón Đức cha Đaminh Hoàng Minh Tiến - Giám mục Chính tòa Giáo phận Hưng Hóa, về dâng Thánh lễ khởi công, làm phép và đặt viên đá góc xây dựng nhà thờ giáo xứ Vân Thê.
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: OnIP™ (www.onip.vn - mCMS).
log