Thứ bảy, 27/07/2024

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật 25 Thường niên A

Cập nhật lúc 16:46 21/09/2023
Suy niệm 1
Mt 20, 1 – 16a
Bài Tin Mừng hôm nay được kết thúc bằng một câu khó hiểu, đó là: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.” Người đứng đầu phải xuống hàng chót là ai? Người đứng chót lại lên hàng đầu là ai? Và tại sao lại có sự cố ngược đời như vậy?
Vào thế kỷ 18 trước công nguyên, Chúa chọn Ápraham làm tổ phụ một dân tộc, để từ đó muôn dân được chúc phúc. Dân tộc ấy là dân Do Thái.
Suốt 18 thế kỷ, họ chỉ biết Chúa là Chúa của họ. Họ cứ vơ Chúa vào cho mình, còn tất cả các dân tộc khác trên thế giới, họ gọi là chư dân. Họ khinh dể chư dân đến độ ai kết thân với chư dân thì bị mắc uế.
Từ thời vua Đavít vào thế kỷ thứ 10 trước công nguyên, mọi người Do Thái đều tin rằng sẽ có Đấng Cứu Thế ra đời. Đấng Cứu Thế sẽ nâng nước Do Thái lên hàng bá quyền. Hằng năm vàng bạc châu báu của chư dân sẽ chất trên lưng những con lạc đà một bướu trùng trùng điệp điệp chảy về Giêrusalem như thác vỡ bờ.
Khi Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế ra đời, Ngài đã không thực hiện những ước mơ ấy của người Do Thái. Thế là Chúa bị hắt hủi, bị đóng đinh vào khổ giá và phải trút hơi thở cuối cùng như một tên đạo tặc. Trong suốt ba năm truyền đạo, Đức Giêsu luôn luôn hướng về dân ngoại. Ngài đề cao người ngoại đến mức độ xém chết tại quê hương Nadarét. Ngài tuyên bố: vào thời sứ ngôn Êlia, trong nước Do Thái có biết bao bà góa nghèo đói, thế mà sứ ngôn không chiếu cố cứu đói. Ngài cứu đói một bà góa người ngoại ở Sarépta. Ngài lại còn nói thêm: Thời Êlisa, trong nước Do Thái có biết bao người cùi, thế mà không được sứ ngôn chiếu cố. Ngài cứu ông Naaman, một người cùi của dân ngoại Syria. Thế là đồng hương nổi giận và la lên: “Lôi cổ nó lên núi, rồi xô xuống cho nó chết đi.”
Còn rất nhiều lần khác, Chúa tiếp tục đề cao người ngoại, thậm chí trong dụ ngôn “Người Samari nhân từ” còn cho người ngoại đóng vai lý tưởng; còn ông tư tế và trợ tế thì cho đóng vai người ích kỷ. Hơn thế nữa, Chúa bảo ông Kinh sư rằng: “Ông hãy về và làm như thế.” Bảo một bậc thầy Do Thái phải bắt chước người ngoại là một xúc phạm lớn. Kệ. Chúa vẫn cứ nói như thế, vì đó là tâm và giáo lý mặc khải.
Ngay trong thời Công vụ Tông Đồ, người ngoại vẫn bị khinh dể khiến phong trào theo đạo Kitô bị rào chắn cực kỳ nghiêm khắc, khiến thánh Phêrô phải cho nổ một trái bom tấn: “Chúng ta không được quyền quàng trên cổ anh em tín hữu cái ách mà cả chúng ta và ông cha chúng ta không vác nổi”. Sau đó, ông thánh Giacôbê mới tuyên bố “Từ nay người ngoại trở lại không phải cắt bì, không phải giữ luật Môsê”.
Vào năm 70 khi nước Do Thái bị xóa trên bản đồ thế giới, Tin Mừng tuyệt đối không còn lệ thuộc, không còn bị vướng mắc luật Môsê. Thế là Tin Mừng được bung ra mãi cho tới khắp thế giới. Như vậy thì người Do Thái là người đầu tiên trở thành người sau chót. Còn chúng ta là những người đến sau chót lại nên người trước hết.
Hôm nay chúng ta là những người được tuyển chọn trước để đem Tin Mừng đến cho lương dân là những người đến sau. Hãy coi chừng kẻo chúng ta lại trở thành người đến sau chót như người Do Thái. Để không rơi vào tình trạng ấy thì chúng ta phải yêu mến các tôn giáo bạn và phải cầu nguyện và tìm mọi cách để anh em lương dân được đón nhận Tin Mừng như chúng ta.
Linh mục Piô Ngô Phúc Hậu
==================
Suy niệm 2
CÔNG BẰNG VÀ NHÂN HẬU

Mt 20, 1-16a
Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa khuyến khích tội nhân trở về với Ngài, Ngài sẽ tha thứ tất cả, bảo họ đừng suy nghĩ theokiểu của phàm nhân, vì tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (55, 6-9). Câu chuyện dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy điều mà Isaia đã nói, về cách hành xử lạ lùng một Thiên Chúa đối với con người, là Ngài rất công bằng mà cũng thật là nhân hậu.
Đức Giêsu cho thấy Nước Trời giống như ông chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Những người đến từ sáng sớm đã có công ăn việc làm, và được chủ thỏa thuận là một quan tiền cho một ngày công. Thế nhưng lại có những người đến sau, vào những thời điểm khác nhau, đến nỗi có người đến vào giờ chót, chỉ làm có một giờ, lý do là “Vì không ai mướn chúng tôi”.
Động lòng thương, một chủ vườn cho họ việc làm. Tuy giờ làm việc không như nhau, nhưng được trả tiền bằng nhau. Điều đó làm cho những người làm từ sáng sớm bị sốc.Họ tức tối và hậm hực với ông chủ, vì cho rằng làm như thế là cư xử bất công với họ. Họ muốn ông phải trả cho người đến sau thấp hơn, không thể ngang bằng với họ được. Họ tỏ ra thái độ muốn hơn thua, phân biệt cao thấp, chứ không chịu cư xử với tình nghĩa anh em. Vấn đề cũng chỉ vì ghen tị mà ra, nên người ta không thể vui với người vui, vì thấy thành công hay lợi lộc của người kia như gây ra mất mát và thiệt hại cho chính mình.
Người anh cả trong dụ ngôn người cha nhân hậu cũng nổi giận, không chịu vào nhà,cảm thấy mình bị cha đối xử bất công, vì thấy cha tỏ ra quá bao dungđối với đứa em hư đốn (x. Lc 15).Thiên Chúa rất công bình nhưng cũng là người cha rất mực yêu thương. Ngài không bỏ qua bất cứ nỗ lực nào mà không ban thưởng cân xứng, nhưng trên nền tảng là lòng nhân lành và hoàn toàn tự do, Ngài có thể ban tặng cho con người vượt xa mọi công trạng của họ. Có hai bài học lớn ở đây:
- Thứ nhất là mọi việc đối với Chúa đều bằng nhau. Vấn đề không phải ở số lượng cho bằng biết mình được yêu thương. Những người làm công từ sớm theo thỏa thuận mỗi ngày là một quan tiền. Họ làm việc vì đồng lươngnên đòi phải rõ ràng. Còn những người đến sau không hề có một giao kèo hay thỏa thuận nào. Họ biết mình được làm việc là điều may mắn rồi, nên sẵn sàng để chủ định đoạt phần lương. Phần thưởng của người môn đệ Đức Giêsu là được làm việc, được phục vụ, đó đã là niềm vui của họ rồi. Kẻ nhắm vào phần thưởng sẽ mất phần thưởng, người nào quên phần thưởng sẽ được phần thưởng. Đó là điều trái ngược mà Chúa Giêsu đã nói lên: những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.
- Thứ hai, mọi sự chúng ta có được đều phát xuất từ lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Tất cả những gì Chúa ban cho, không phải để trả công, nhưng là quà tặng; không phải là phần thưởng, nhưng là ân sủng. Nếu ông chủ không kêu gọi những người mà ông gặp từ sớm vào làm vườn, thì họ có thể ngang nhiên lên mặt với những kẻ làm vào giờ cuối không? Đừng đòi Thiên Chúa phải suy nghĩ và hành xử theo lề thói của chúng ta, vì đó là một thứ hành xử công thẳng mà không có tình thương. Nếu Chúa chấp tội, chúng ta có chịu nổi được không?Cần sòng phẳng hay cần lòng nhân từ? Chúng ta phải thay đổi não trạng để sống đạo không bằng sự so đo tính toán, mà bằng cả tấm lòng.
Sống trong đời sống cần có một tấm lòng…để gió cuốn đi…”. (Trịnh Công Sơn). Có làm được gì cho người khác thì cũng hãy để gió cuốn đi, là để biết cho đi chứ không tìm chiếm hữu, là hy sinh mà không mong được đáp đền. Để gió cuốn đi là để cho yêu thương được lan tỏa, là để cho an vui và hạnh phúc đến với mọi người.Thương người như thể thương thân, ta mới cảm nhận hạnh phúc xung quanh mình.
Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta học lấy tâm tình và cung cách hành xử của Thầy mình, nghĩa là quan tâm ưu ái đặc biệt đến những người nghèo hèn, yếu kém, không có cơ hội... Hãy phá bỏ những hàng rào tị hiềm, nhỏ mọn, ghét ghen. Đừng tỏ ra mình hay hơn, tốt hơn, xứng đáng hơn người khác, nhưng hãy nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, ta cần luôn sống yêu thương, khiêm nhường và tận tình với hết mọi người, nhất là những người bất hạnh, không được may mắn như chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Con không thể nào là chính mình,
với cái nhìn hẹp hòi,
với tư tưởng đóng kín,
với tâm hồn khép chặt.

Con không thể đón nhận sự thật,
khi con chỉ muốn sống an thân,
khi con có thái độ bất cần,
và thiếu một tinh thần rộng mở.
Con không thể nào an vui hạnh phúc,
nếu lòng mình cứ “bế quan tỏa cảng”,
hay còn mang những định kiến ngổn ngang,
không hồn nhiên và tươi sáng chân thành.
Con sẽ thấy cuộc đời thật chí thú,
khi để mình vượt qua lối sống cũ,
những quan niệm hẹp hòi và bảo thủ,
những khuôn khổ và thói quen bám trụ,
hầu tập chú vào những gì đang tới,
là những gì làm tươi mới đời mình.
Xin cho con đừng tự mãn kiêu căng,
đừng dựa vào tài năng hay kiến thức,
nhưng biết sống chân thành và đạo đức,
không ham mê háo hức chuyện hơn thua,
nhưng quan trọng là lòng yêu mến Chúa,
nên không cần phải phân bua biện bạch.

Xin cho con an nhiên trước mọi điều,
biết vui mừng khi anh em được lợi,
đừng nghĩ ngợi tới việc lời hay lỗ,
mà luôn nhằm tiến tới chỗ tình thân.

Xin cho con biết đón nhận tất cả,
chẳng có gì mà đáng phải kêu ca,
con cứ sống chan hòa và buông xả,
để Chúa là tất cả của đời con. Amen.

Lm. Thái Nguyên
==================
Suy niệm 3
ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA

Kinh nghiệm nói cho chúng ta biết rằng: nhiều lần trong đời sống đức tin, chúng ta tự hỏi liệu Thiên Chúa nhìn và đánh giá chúng ta thế nào nhỉ? Thiên Chúa có thiên vị?Ngài bênh đỡ người khác, bỏ mặc tôi?Ngài thương người khác hơn tôi?và rất nhiều câu chất vấn khác nữa…
Các bài đọc Phụng vụ hôm nay cho chúng ta một câu trả lời đầy thuyết phục từ lời ngôn sứ Isaia “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta” (Isa 55, 8). Thật vậy, Thiên Chúa nhìn và đánh giá chúng ta không như người đời. Ngài không căn cứ vào bằng cấp, sự danh giá, quyền bính, thành tựu, địa vị, quyền cao chức trọng, của cải của ta mà nhận xét, phán quyết. Thiết nghĩ, Thiên Chúa tôn trọng bạn và tôi là những người con yêu quý, ‘độc nhất vô nhị’ của Ngài. Ngài thỏ thẻbên tai chúng ta, mời gọi, thúc giục chúng ta bằng lời nói yêu thương, không hề vướng bợn định kiến hay xét đoán. Tuy nhiên, lắm lúc chúng ta không nhận ra điều này, phải chăng vì trong chúng ta tiềm ẩn lối suy nghĩ thiển cận, vội vã như những người được kêu mời làm vườn ở giờ đầu tiên “những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, còn chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?” (Mt 20, 12). Hay là do sự hoán đổi cách nhìn nhận, coi trọng giá trị mà xã hội thực dụng, văn hoá ‘ăn liền’, trào lưu ‘rẻ rúng, chóng qua’ mang lại, ảnh hưởng sâu đậm đến lối nhìn, suy nghĩ, đánh giá của chúng ta đối với tha nhân, cũng như thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta chăng!
Thứ đến, Thiên Chúa có lẽ chẳng trông mong những gì chúng ta kỳ vọng! Thực tế, qua những câu chuyện trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa coi trọng những người nghèo khó, nghề nghiệp tuy thấp kém nhưng có tâm hồn luôn biết tìm kiếm Chúa (x. 1Sm 16), viên đại đội trưởng với thái độ khiêm tốn thể hiện lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giê-su (x. Lc 7, 1-10), bà goá tuy nghèo túng, nhưng cho đi một cách quảng đại tất cả những gì bà có, trong khi những người giàu có, chỉ cho đi những đồng bạc dư thừa (x. Lc 21, 1-14), v.v...Đường lối của Chúa chẳng ai thấu hiểu được, và cách thức của Người không bao giờ dựa trên những vẻsa hoa, bề ngoài. Ngài chẳng màng đến sơ yếu lí lịch hào nhoáng, hay những thành tựu của ta. Nói như vậy, không có nghĩa là Thiên Chúa bỏ mặc những người thành đạt, những ai có công việc cao cả, hoặc những người giàu sang biết cho đi một cách quảng đại,thành tựu của bạn và tôi không có ích gì trong việc tôn vinh Chúa. Mà đúng hơn, chúng ta không nên tự cho mình đang đứng đầu trong việc tôn vinh Chúa nhờ những thành đạt hay công trạng mình đạt được. Theo lẽ trật tự Thiên Chúa đặt ra, bạn và tôi không nhất thiết phải đứng hàng đầu “kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16) Đối với Chúa, “ngàn năm trôi qua như thể một ngày, và một ngày dài thăm thẳm như thể ngàn năm” (x. Tv 90, 4; 2Pr 3, 8), quá khứ hay tương lai dường như không hiện diện trong chương trình của Chúa, mà hơn hết, sống giây phút hiện tại ‘bây giờ và nơi đây’ (hic et nunc) mới thực sự cấp bách và cần kíp như câu danh ngôn sau: “đừng âu sầu, não nề, khóc than về quá khứ vì mọi thứ đều đi qua, cũng đừng mơ tưởng về tương lai vì nó chưa đến. Hãy sống trọn vẹn và biến giây phút hiện tại thành khoảnh khắc tươi đẹp hơn”.
Nếu bạn có những băn khoăn, không cảm thấy hạnh phúc về bản thân hoặc về những thành tựu đạt được, hay tự vấn không biết Chúa nhìn và đánh giá cuộc đời bạn thế nào, thì xin bạn cùng tôi nhớ rằng:  
  • Chúa hết mực yêu thương con cái của Ngài như người cha hằng hy sinh cho những đứa con mình một cách liên lỉ, vô điều kiện. Ngài nhìn bạn và tôi không ngoài điều gì khác ngoài một tình yêu vô hạn. Ngài cũng rất tựhào khi nhìn thấy những lựa chọn khôn ngoan và trưởng thành mà chúng ta đã và đang thực hiện trong dòng đời đầy biến chuyển này;
  • Ngài nhìn thấy tâm hồn vâng phục của chúng ta, một tâm hồn đơn sơ, trung thành phó thác vào Ngài, ngay cảnhững lúc thất vọng ê chề, chán chường dường như mọi thứchung quanh ta là bầu trời tối đen mịt mù không lối thoát;
  • Chúa nhìn thấy cuộc sống hy sinh mà chúng ta dành cho Ngài và cho tha nhân qua biết bao lần ta dấn thân ngay cảkhi phải trảgiá; Ngài nhìn thấy ta sẵn sàng bước theo Ngài, tín thác vào chương trình cứu độmà Ngài dành cho ta, thậm chí khi bạn và tôi không thểnhìn thấy rõ con đường phía trước hoặc đích điểm cuối cùng của đường đời;
  • Chúa nhìn thấy tâm hồn quảng đại của bạn và tôi, sẵn sàng chia san, sẵn sàng quên mình và cho đi vì tha nhân. Luôn đặt công ích, lợi ích của cộng đoàn lên trên tư lợi; Ngài nhìn thấy ta khiêm tốn, sẵn lòng đón nhận ngọn lửa tinh luyện đểta được thanh luyện, tẩy sạch bợn nhơ và trởnên tinh tuyền, thánh thiện hơn;
  • Chúa nhìn thấy ta mạnh mẽtrong đức tin, mặc dù bản thân ta cảm thấy yếu đuối. Ta đã trung thành với ơn gọi làm con của Ngài mặc dầu bao thửthách, chông gai giăng bẫy trên đường đời; Ngài nhìn thấy chúng ta là sứgiảTin Mừng, là chứng nhân mang thông điệp tình yêu của Ngài đến với mọi người đểhọcũng có thểtìm thấy nguồn vui ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Ngài nhìn cuộc sống của chúng con khác với cách thế gian. Ngài thấu rõ những giá trị thật sự nơi cuộc sống của con mà những người khác có thể không để ý đến hoặc không nhìn thấy. Phẩm chất làm nên tính cách đóng góp cho cuộc sống của anh chị em chúng con và sẽ còn mang âm hưởng cho những biến chuyển lớn lao trong đời sống đức tin của chúng con. Xin ban cho chúng con đôi mắt biết hướng nhìn lên Chúa, và biết nhìn về phía tha nhân!
Lm.Xuân Hy Vọng
==================

Suy niệm 4
Đồng Bạc Nước Trời

(Mt 20, 1 – 16a)
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc và người nghe Tin Mừng. Nhiều người không khỏi ngạc nhiên vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. “Những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng” (Mt 20,9-10). Nhất là những người làm công cho ông chủ, họ vừa nhận vừa lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? (Mt 20,12). chúng ta tự hỏi: Cách hành xử và trả công của của ông chủ có chấp nhận được không?
Đọc xong, ai cũng cảm thấy ông chủ làm vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý.
Không, Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả chúng ta. Một đồng ông chủ trả cho người làm công là đồng bạc Nước Trời, là đồng có tên sự sống đời đời, nên dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng câu: “Nước Trời giống như…” (Mt 20,1), chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này.
Câu chuyện lấy bối cảnh trong cuộc sống hằng ngày nhưng ngụ ý về Nước Chúa. Vườn nho được hiểu là Hội Thánh, có Chúa làm chủ. Người làm công là hình ảnh tượng trưng cho tất cả những ai đáp lời Chúa gọi mời. Thời gian làm việc trong ngày là đời người, và tiền công là sự sống vĩnh cửu. Lời mời gọi vào làm vườn nho cho Chúa gửi đến với mỗi người vào những thời điểm khác nhau trong suốt cuộc đời. Có người đến sớm, có người đến muộn, số khác chỉ đáp lời lại tiếng Chúa vào lúc cuối đời. Nhưng bất cứ ai chấp nhận lời mời đều sẽ được hưởng một đồng sự sống đời đời.
Thông điệp của dụ ngôn này thật rõ ràng. Trong khi chúng ta vẫn mặc định rằng người làm việc khó nhọc hơn xứng đáng với tiền công lớn hơn, ông chủ vườn nho hành động ngược lại ; do đó một số người xem đó là không công bằng. Nhưng chủ vườn bảo với họ rằng: “Chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về” (Mt 20,13-14).
Không ai bị xử tệ cả, bởi vì họ đã đồng ý với chủ vườn về số tiền họ sẽ nhận cho ngày làm việc của họ (một đơ-ni-ê cho một ngày công là tiền lương khá hậu hĩnh vào thời đó). Ông cũng bảo cho họ biết ông đang sử dụng tài sản của ông theo ý ông muốn: “Tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?" (Mt 20,15).  
Luật lệ Nước Trời do Thiên Chúa thiết lập: sự cứu rỗi dành cho loài người hoàn toàn phụ thuộc vào tình thương và lòng nhân lành của Chúa, không do công đức, nỗ lực cá nhân hoặc nếp sống khổ hạnh của bất cứ ai, bởi vì không ai có thể đáp ứng những chuẩn mực đạo đức của Đấng Chí Thánh.
Ai là người làm công được nhận vào giờ thứ mười một? Có thể là những người đón nhận ơn Chúa lúc lâm chung, cũng có thể là những người bị rẻ rúng dưới mắt những người sống đạo lâu năm. Nhưng chớ vội vàng kết luận. Trong ý nghĩa sâu xa hơn, tất cả chúng ta đều là người làm công giờ thứ mười một, và chúng ta đều được Chúa mời vào vương quốc của ngài cách vinh dự. Vì vậy, không cần phải đoán định ai là người làm công giờ thứ mười một. Thông điệp của dụ ngôn là chúng ta được cứu rỗi chỉ do ân ban của Thiên Chúa, chứ không do công trạng của con người.
Phản ứng của một vài người trong số những người làm công trong vườn nho đối với điều họ cho là bất công, tượng trưng cho sự tự mãn dễ thấy trong cộng đoàn tín hữu sống đạo lâu năm. Họ tin rằng phần thưởng dành cho họ phải tương xứng với thời gian họ phụng sự Thiên Chúa. Đó là kết quả của cách suy nghĩ cho rằng sự cứu rỗi đến từ công đức, và đó là điều mà dụ ngôn này muốn bác bỏ.
Điều chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: “từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng” (Mt 20,9). Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông.
Sau cùng, nên nhắc lại “điểm chính” trong dụ ngôn để chúng ta qui chiếu về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho cả và nhân loại là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được mời gọi trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

==================

Suy niệm 5
Bằng lòng với khả năng Chúa ban

Mt 20,1-16
Khi những người làm thuê được gọi vào làm vườn nho từ sáng sớm, thấy những người khác vào làm muộn hơn cũng được lãnh tiền công bằng mình thì đâm ra ganh tị, phàn nàn, tức tối…
Ganh tị là căn bệnh trầm kha phát sinh từ thời kỳ đồ đá và sẽ tồn tại mãi cho tới ngày tận thế.
Ngay khi loài người có mặt trên địa cầu là bắt đầu có ganh tị. Sau khi hai anh em Ca-in, A-ben dâng lễ vật cho Thiên Chúa, Ca-in nổi cơn ganh tị vì lễ vật của A-ben được Chúa vui nhận còn lễ vật của mình thì không. Lòng ganh tị bùng lên mãnh liệt trong lòng đã xui khiến Ca-in giết chết người em vô tội của mình.
Trong xã hội hôm nay, lòng ganh tị cũng đang nhen nhúm trong tâm hồn khi người ta thấy người khác đẹp hơn, giàu có hơn, sang trọng hơn, thành công hơn, nổi bật hơn mình… Ganh tị sinh ra ganh ghét, ganh ghét sinh ra chia rẽ, hận thù, bất hòa, bất thuận.
Diệt trừ lòng ganh tị
Ganh tị là căn bệnh trầm kha, rất khó diệt trừ. Tuy nhiên, bệnh nào cũng có thuốc chữa. Vậy chúng ta thử xem có phương thế nào có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa chứng bệnh này không.
Nguyên nhân sinh ra ganh tị là vì thấy mình thua kém người khác. Vậy thì cách tốt nhất để xóa bỏ ganh tị là nhận biết rằng dù ta thua kém bạn về mặt nầy nhưng có thể hơn bạn về mặt khác.
Mỗi người được sinh ra trên đời là một nhân vật độc đáo, độc nhất vô nhị; mỗi người một vẻ, không ai giống ai; mỗi người đều có tính cách riêng, sứ mạng riêng, trách nhiệm riêng…
Trong khu vườn có trăm hoa đua nhau khoe sắc. Mỗi cụm hoa đều có nét đẹp riêng, hương sắc riêng. Hoa Cúc không nên ganh tị với hoa Hồng vì không tỏa hương thơm ngát như Hồng, nhưng hãy bằng lòng với những nét đẹp đặc thù của mình mà hoa Hồng không có.
Tương tự như thế, mỗi người chúng ta sống trong xã hội như một cánh hoa trong khu vườn rộng lớn có trăm hoa đua nở. Mỗi người có một số khả năng riêng, một tính cách riêng, không ai giống ai. Một thi sĩ có thể sáng tác những vần thơ tuyệt tác nhưng lại bó tay trước những bài toán khó; trong khi những người giải được bài toán khó lại không biết làm thơ. Ta có thể thua kém người khác về lĩnh vực nầy nhưng có thể giỏi hơn họ trong lĩnh vực khác.
Vì thế, hãy bằng lòng với khả năng Chúa ban cho mình, trau dồi thêm khả năng đó để phục vụ tốt hơn.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa ban cho mỗi người có một số khả năng riêng, cũng giống như cho mỗi thứ hoa một hương sắc đặc thù.
Xin cho chúng con bằng lòng với ân huệ Chúa ban và phát huy khả năng Chúa ban cho mình để tôn vinh Chúa và phục vụ tha nhân. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

=================

Suy niệm 6
ĐI LÀM VƯỜN NHO

Mt 20, 1-16a
Tin Mừng hôm nay kể chuyện một gia chủ tốt bụng, thương người  nhất trần đời. Ông hứa từ sáng với thợ làm vườn nho sẽ trả mỗi ngày một quan. Không biết vì mong được việc cho mình, hay lo cho nhân công không kiếm nổi áo cơm, mà giờ ba, giờ sáu, giờ chín, thậm chí giờ mười một ông vẫn ra ngóng và nhận nhân công còn thất nghiệp, cả người ngoài chợ, dù muộn giờ chót vẫn được mời vào làm, với hy vọng ông trả hợp lẽ công bằng. Đến giờ trả công, chuyện xảy ra là những người làm ít nhất cũng được trả một quan. Những người làm nhiều từ sáng sớm mới sáng mắt lên, họ nghĩ mình sẽ được trả càng nhiều, thế nhưng họ cũng chỉ được bằng những người đến làm muộn. Máu ghen nổi lên, họ mới cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt 20, 12). Rất nhiều khi con người chúng con ghen tị với những người được hơn mình, huống chi người làm ít hưởng nhiều và ngược lại. Ông chủ mới phân trần: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 13-15). Quả thực ông chủ không xử bất công với họ vì đã thỏa thuận. Ông có quyền định đoạt về những gì ông có và có quyền ban tặng bao nhiêu cho ai tùy ý.
Ông chủ tốt lành ở đây chính là hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng xót thương, sẵn sàng yêu thương cứu độ hết thảy mọi người dù họ là ai, người sang hay hèn, giàu hay nghèo. Trong Vương Quốc Nước Trời không phân biệt người đến trước, kẻ đến sau, sống đạo từ nhỏ hay tân tòng, không cân đo đong đếm công đức làm điều kiện để hưởng quyền lợi. Trong Giáo Hội, từ Đức Giáo Hoàng đến người giáo dân dù có bần hàn, đều là con của Chúa và đáng hưởng gia nghiệp dành sẵn cho những ai biết đón nhận, yêu mến và thực thi Ý Chúa trong cuộc đời mình.  
Trong vườn nho là Nước Trời ngay trong cuộc sống này, với những con người cao cả hay thấp hèn, hiền hòa vui vẻ hay nóng nảy, khỏe mạnh hay yếu đau bệnh tật đều được mời gọi “hãy đi vào vườn nho” với khả năng sức lực của mình. Chính Đức Giêsu cũng đi vào và chết cho trần thế, thì hôm nay Người vẫn sẵn sàng liên lụy với mỗi cuộc đời ngàn nỗi khác nhau, để nhờ Người chúng con thực sự được trở thành những thợ làm vườn nho mà không uổng phí.
Mỗi cuộc đời, mỗi con người chúng con đều được mời gọi và nhận cả tấm lòng của Ông Chủ, đó là Tình Yêu, là chính Chúa. Nếu chúng con nhận ra mình được yêu thương và mở lòng đón nhận là đủ thỏa mãn cho chúng con, chúng con sẽ vui vẻ hăng hái trong vườn nho của Chúa dù cuộc đời có ngắn dài khác nhau. Chúng con sẽ không còn phải so đo tính toán vật chất, không phen bì ấm ức, phàn nàn ganh tị với những người mà cuộc đời toàn hoa hồng. Bởi vì:
                 “Lúc giờ mười một điểm vừa xong, 
                   Chiều đã nghiêng nghiêng nhạt nắng hồng,
                   Hãy thả hồn bay miền thanh khí,
                   Thánh vịnh đàn ca vút thinh không.
                   Lạy Chúa Kitô, đám thợ này,
                   Ðược gọi mướn làm buổi sáng nay.
                   Ân huệ vinh quang, lời đã hứa,
                   Dãi dầu mưa nắng, phải đầy tay!
                   Chúng con vừa được Chúa gọi vào,
                   Công sá đâu còn nghĩ thấp cao!
                   Chỉ xin giúp sức làm hiện tại,
                   Rồi việc chắc Ngài sẽ thưởng sau.”
                                (Thánh thi kinh chiều thứ sáu- tuần II)
 Én Nhỏ

Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Ban Lễ sinh Giáo xứ Trại Sơn mừng lễ kính Thánh Giacôbê Quan thầy
Ban Lễ sinh Giáo xứ Trại Sơn mừng lễ kính Thánh Giacôbê Quan thầy
Vào lúc 19g30 ngày 25.11.2024, tại nhà thờ giáo xứ Trại Sơn, cha Giuse Trần Văn Điển đã long trọng cử hành Thánh lễ kính Thánh Giacôbê, Quan thầy Ban Lễ sinh giáo xứ Trại Sơn. Tham dự Thánh lễ có sự hiện diện của quý thầy, quý dì, quý khách, quý ông bà phụ huynh, quý cộng đoàn và gần 30 em Lễ sinh trong toàn giáo xứ.
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: OnIP™ (www.onip.vn - mCMS).
log