Thứ sáu, 17/05/2024

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 32 Thường Niên Năm C

Cập nhật lúc 09:05 08/11/2019
Suy niệm 1
Bức màn biến mất!
(Lc 20, 27 - 38)
Cái nhìn bị che giấu
Những người Sa-đu-sê biết Kinh Thánh. Họ đã đọc cuốn sách Đệ Nhị Luật bao gồm các luật lệ và phong tục mà Môi-se, nhân danh Gia-vê Thiên Chúa, đã dạy cho dân. Họ biết các quy định và cấm đoán liên quan đến tình yêu và hôn nhân, trong đó có khoản luật mà hôm nay họ nói với Chúa Giêsu: “Nếu có một người người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ góa đó, rồi cũng chết mà không có con để cho anh mình có con nối dòng…Rồi đến người em trai thứ bảy cũng thế
Đúng!  người Sa-đu-sê biết Kinh Thánh. Nhưng họ đọc không sâu. Họ dựa vào mặt chữ của văn bản. Họ giải mã bản văn bằng cái nhìn bị che giấu. Đọc Kinh Thánh, họ chỉ phát hiện ra một vũ trụ tuyệt vọng. Theo cách nói của họ, cuộc sống chỉ được lặp đi lặp lại mà không nhường chỗ cho sự mới lạ (bảy lần liên tiếp cùng một điều bất hạnh!). Nói theo cách của họ, tình yêu bị khóa trong luật: một người phụ nữ phải yêu và cưới 7 anh em để lấy người nối dõi tông đường. Đối với họ, cái chết là chân trời duy nhất của sự tồn tại, hay nói một cách cụ thể: chết là hết. Như vậy, khi cuộc sống đã lụi tàn, làm sao họ có thể yêu cuộc sống được? Và khi không yêu cuộc sống, thì làm sao họ có thể hy vọng phục sinh. Như vậy, họ tuyên bố rằng không có sự phục sinh. 
Đọc Kinh Thánh với cái nhìn mở
Không nghi ngờ gì đối với những người này và với những người giống họ, Thánh Phao-lô đã viết cho các tín hữu Corintho về những người này: "Môi-se lấy màn che để dân Israel khỏi thấy khi nào cái chóng qua kia chấm dứt. Nhưng trí họ đã ra mê muội. Thật vậy, cho đến ngày nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, và chỉ trong Đức Kito, tấm màn ấy mới được vứt bỏ”. Chúa Giêsu là người đầu tiên hướng về Chúa Cha. Chúa Giêsu biết Kinh Thánh. Ngài biết dịch và giải mã. Ngài biết như những người Sa-đu-sê biết cuốn Đệ Nhị Luật, những luật lệ và phong tục mà Moise, nhân danh Giave Thiên Chúa dạy cho dân. Chúa Giêsu biết cách nhận ra, trong văn bản, điều quan trọng đó là sự sống. Chúa Giêsu đã biết cách nhận ra, bằng cách giải mã Kinh thánh, rằng sự sống mạnh hơn cả Luật.
Chúa Giê-su biết sách Tobia, giống như những người Sa-đu-sê. Nhưng Ngài biết tốt hơn họ! Ngài biết rằng cái chết không phải là chân trời của Sara, người phụ nữ bảy lần góa chồng. Ngài không quên rằng trong cuốn sách đó tình yêu con người còn mạnh mẽ hơn ác ý của những con quỷ ngoại giáo. Giữa những thử thách, Sara muốn sống một tình yêu đẹp của con người. Chúa Giêsu đã biết cách nhận ra tình yêu đó mạnh hơn sự chết bằng cách giải mã Kinh thánh. 
Đọc cuộc sống với cái nhìn mở
Chúa Giêsu không có tấm màn che mắt. Ngài giải mã Kinh thánh. Ngài biết đọc cuộc sống và nhận ra rằng cuộc sống mời gọi một điều mới mẻ. Bất hạnh hoặc tội lỗi không thể đóng cuộc sống được. Kinh Thánh dẫn đến việc hướng tới tương lai như một người canh gác, giữa lòng đêm, chờ đợi bình minh. Chúa Giêsu biết Kinh Thánh. Ngài viết Kinh Thánh trên đất. Gần Ngài, một phụ nữ đáng lẽ phải chết vì tội ngoại tình, nhưng đã được Ngài cứu sống. Vì Chúa Giêsu biết Kinh Thánh, Ngài đọc Kinh Thánh với cái nhìn mở và không có tấm màn che con tim Ngài. Ngài phát hiện ra lời hứa của Chúa Cha mọi nơi mọi lúc. Ngài biết rằng cuộc sống khai thông cuộc sống. Cuộc sống mời gọi cuộc sống.
- Khi sự sống không có màu tro tàn, khi tin rằng không có gì nữa, thậm chí không có lửa thì cũng không có thể thiêu hủy sự sống.
- Nhưng khi yêu cuộc sống bất chấp tất cả, khi hy vọng chống lại mọi thất vọng, thì chúng ta có thể nhận ra rằng Kinh Thánh dẫn đến sự Phục sinh.
Lời Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Moi-sê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac và Thiên Chúa Giacob. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. vì mọi người đều sống cho Thiên Chúa”.
Bức màn biến mất
Vì thế, đối với người kito chúng ta, chúng ta đón nhận Kinh Thánh một cách mới mẻ. Chúng ta tin vào sự Phục sinh của Chúa Kito. Chúng ta phải học cách đọc Kinh Thánh như chính Chúa Giêsu đọc Kinh Thánh của Môi-se. Nguy cơ vẫn tồn tại nếu đọc Kinh Thánh với một cái nhìn bị che giấu. Chúng ta nhận ra rằng bức màn phải bị vứt bỏ khỏi con tim chúng ta, nếu chúng ta say mê sự mới lạ, say mê cuộc sống, say mê đến chết... và sẽ sống lại. Chúng ta nhận ra rằng bức màn không biến mất nếu cái chết, bạo lực, thất bại, tội lỗi giết chết niềm hy vọng hoặc dập tắt ham muốn tình yêu của chúng ta
Nguyện xin Thiên Chúa vứt bỏ bức màn làm hỏng tầm nhìn của chúng ta. Xin Ngài mở mắt chúng ta để chúng ta nhận ra rằng Ngài là Thiên Chúa của sự sống và không cần chờ đợi thế giới mai sau, chúng ta hãy cứ sống là những người thừa kế sự Phục Sinh của Chúa Kitô.
Linh mục Gioan Đặng Văn Nghĩa
====================
Suy niệm 2
TÔI TIN SỰ SỐNG ĐỜI SAU
(2 Mcb 7,1-2.9-14; 2 Tx 2,16--3,5; Lc 20,27-38)
Có ngày sinh ắt có ngày chết. Đó là chân lý. Nếu ngày sinh, chúng ta cất tiếng khóc trong niềm vui mừng của mọi người, thì ngày chết, mọi người sẽ khóc cho kiếp người của ta đến đây kết thúc. Vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?
Những câu hỏi như thế, nhóm Sađốc trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đã đặt ra cho Đức Giêsu. Nhân cơ hội, Đức Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về thắc mắc trên.
1.      Tại sao nhóm Sađốc không tin sự sống lại
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào trong bối cảnh sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, và cũng là một trong những bài giáo huấn quan trọng của Ngài tại Giêrusalem. Đức Giêsu lên Giêrusalem lần này là để chuẩn bị cho cuộc thương khó mà Ngài sẽ chịu: "Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất” (Lc18,31). Vì thế, khi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài ở đây, nhóm Pharisêu và Kinh sư luôn tìm cách gài bẫy để bắt Đức Giêsu nhằm loại trừ Ngài và xóa bỏ giáo lý mà Ngài đang loan báo. Hôm nay, thêm một nhóm nữa cũng với ý đồ như hai nhóm trên, họ chính là nhóm Sađốc.
Nhóm này là một trong ba nhóm quyền lực nhất trong dân thời bấy giờ, đó là: Pharisêu, Kinh sư và Sađốc. Hai nhóm đầu họ chỉ chú trọng đến việc đạo đức và giữ luật cách tỉ mỉ, hình thức bên ngoài. Còn nhóm Sađốc thì lại chú tâm đến vấn đề chính trị và tiền bạc. Thái độ và cách thức khác nhau, nhưng họ đều là những người chống đối Đức Giêsu. Chủ trương của nhóm Sađốc này là không tin có sự sống lại. Họ hoàn toàn phủ nhận tất cả những gì không nằm trong bộ Ngũ Thư, bởi vì họ chỉ tin năm cuốn sách đầu của Cựu Ước, và họ bác bỏ hết tất cả các sách còn lại. Trong bộ Ngũ Thư của Mô sê không có nói trực tiếp đến vấn đề sống lại. Có chăng chỉ là những hình ảnh. Vì thế, họ không tin. Mặt khác, giả thiết của nhóm này là: nếu có tin thì sự sống đời sau chẳng khác gì cuộc sống hiện tại trên trần gian, và, quyền năng của Thiên Chúa không xa hơn khả năng của con người là bao! 
Khởi đi từ quan điểm, lựa chọn trên của nhóm này, nên họ đã đặt ra cho Đức Giêsu một tình huống hết sức ly kỳ. Họ trưng ra một câu chuyện theo kiểu trào phúng: khi có hai người lấy nhau, người chồng chết mà không con, theo luật, người vợ đó sẽ được lấy tiếp người anh em còn sống để có con nối dõi, và lần lượt như thế tới 7 đời chồng mà vẫn không có con, vấn nạn đặt ra là: sau khi sống lại, người đàn bà này sẽ là vợ của ai? (x. Lc 20, 27-38)
Khi đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi như vậy, họ đã dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” một mũi tên bắn hai đích. Một phần họ muốn gài bẫy Đức Giêsu để kiếm cớ tố cáo Ngài; mặt khác, họ muốn so tài với nhóm Pharisêu và Kinh sư, vì hai nhóm này đã bị thất bại nhiều lần và chịu sự khiển trách nặng nề của Đức Giêsu công khai trước mặt toàn dân.
Khi nhóm Sađốc đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi về sự sống lại, nhân cơ hội này, Ngài đã mạc khải cho họ về sự sống lại và cuộc sống của con người sau cái chết.
2.      Mạc khải của Đức Giêsu về sự sống sau cái chết
Ngay sau khi nghe họ đặt câu hỏi, Đức Giêsu đã đi thẳng vào vấn đề: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần” (Lc 20, 35).
Thật vậy, ở đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải lấy vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần. Cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Sống. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, bởi vì: Thiên Chúa vẫn là Đấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải là Thiên Chúa của kẻ chết.
Tuy nhiên, không phải ai cũng được vào dự phần vinh phúc đó, chỉ những người được chọn và gọi mà thôi: “Những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết” (Lc 20, 35) thì sẽ được dự phần phúc ấy. Họ là những con chiên được tuyển chọn và được tách ra khỏi dê; là lúa tốt được phân rẽ ra khỏi cỏ lồng vực; là cá tốt được lọc ra khỏi cá xấu... Họ là con cái Thiên Chúa, khi chết, họ trở về ngôi nhà vĩnh cửu của Cha mình để hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối: “Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được” (1Cr 2,9).
3.      Niềm tin vào sự sống lại của chúng ta
Như vậy, qua mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại, mỗi người chúng ta tin tưởng và hy vọng, vì: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Niềm tin ấy đạt đến đỉnh cao khi chính Đức Giêsu, Đấng đã chết, được mai táng trong mồ ba ngày, và ngày thứ ba đã trỗi dậy từ cõi chết. Niềm tin này đã được các Tông đồ loan báo và làm chứng: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3, 15; x. Cv 2,32; 10,41). Thật vậy:“Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1 Cr 6,14). Niềm tin này đã được Giáo Hội tuyên tín trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”.
Khi tin như thế, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa, là cánh cửa ta cần bước qua để tiến vào sự sống viên mãn, vĩnh cửu. Quả thật, nếu không có sự sống lại sau cõi chết, thì niềm tin của chúng ta trở nên mù quáng. Điều này cũng đã được chính thánh Phaolô diễn tả khi nói: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19).
Tuy nhiên, sống hay chết là một sự chọn lựa. Cuộc sống đời sau là có thật, nhưng để đạt được hạnh phúc hay không lại tùy vào thái độ và sự lựa chọn của mỗi chúng ta. Chọn lựa tốt thì sẽ được hạnh phúc, chọn lựa sai thì sẽ bị đau khổ, vì: “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). 
Như vậy, muốn cho cuộc sống của mình được hạnh phúc trường sinh với Chúa thì: hãy sống như những người tỉnh thức để đợi chủ về. Hãy sống như các cô trinh nữ khôn ngoan. Và, hãy sống như đây là giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, chính mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa là bảo chứng tuyệt đối của chúng con vào cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con ý thức rằng một ngày nào đó, chúng con sẽ phải từ giã cuộc sống tạm bợ này để về với Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc thực sự. Amen.
Tu sĩ: Giuse – Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.
====================
Suy niệm 3

CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG
(Lc 20, 27-38)
Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa” hay “vì Chúa.” (Lc 20, 37-38)
Augustine nói rất đúng: Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để từng phút giây “hướng về Ngài“. Quả thật, Thiên Chúa trao ban sự Thiện tốt hảo, kể cả chính mình cho con người để con người được sống.
Cái chết không là một phần kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1 , 13-14). Do tội, sự chết đã du nhập vào trong tạo dựng, Thánh Phaolô nói: “Nọc của sự chết là Tội, mãnh lực của Tội là Lề luật” (1Cr 15, 56). Đúng là tội lỗi sinh ra sự chết vì sự chết cắt đứt mối liên hệ với Đấng Hằng Sống làm ra sự sống. Nhưng “Ðội ơn Thiên Chúa, Ðấng đã ban toàn thắng cho ta nhờ Chúa chúng ta, Ðức Giêsu Kitô!” (1 Cr 15 , 57). 
Vâng, Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã chiến thắng tử thần! Lời Hằng Sống đã kết thân với phận người, được đánh dấu bằng cái chết, để chiến thắng sự chết vào buổi sáng Phục Sinh. Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần, Đấng Thánh Hóa đã xuống đầy lòng chúng ta, những người chịu phép Rửa tội, ngõ hầu chiến thắng của Chúa Kitô Phục sinh hiện diện trong đời ta.
Đức Kitô đã sống lại, sự chết không làm gì được Người nữa. Nên “nếu ta sống, chính cho Chúa mà ta sống; và nếu ta chết, thì chính cho Chúa mà ta chết. Vậy dù sống, dù chết, ta vẫn thuộc về Chúa,” (Rm 14 , 8 ). Làm sao không ngạc nhiên cùng với Thánh Phaolô kêu lên: “Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” ( 1Cr 15, 55 ). Đó là lý do tại sao “những người được coi là xứng đáng lãnh phần thưởng trong thế giới mai ngày và sự sống lại từ cõi chết, nghĩa là những người đã được rửa tội, không thể chết nữa : họ là con cái Thiên Chúa, thừa hưởng sự sống lại”.
Tất nhiên, chúng ta chưa thể mường tượng được sự viên mãn ở đời sau sẽ ra sao, các thiên thần gợi ý cho thấy một cuộc sống hoàn toàn dành cho việc ngợi khen Chúa, trong sự hiệp thông hoàn hảo và tạ ơn muôn đời. Vì sự chết sẽ không làm gì được nữa, không cần thiết để đảm bảo sự sống còn của muôn loài: hôn nhân như một tổ chức để duy trì cuộc sống không có lý do để tồn tại nữa. Chúng ta sống trong tương quan tình yêu viên mãn với Thiên Chúa và với nhau, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần.
Như thế chúng ta sẽ hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Sađốc: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại”. (Lc 20, 34-36)
Lời giải đáp của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy: Cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hẹp hòi. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Thánh Kinh: Thiên Chúa là Chúa các tổ phụ. Người là Thiên Chúa của kẻ sống (x. Lc 20, 37-38). Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu thì phải tin con người có cuộc sống vĩnh cửu. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại là vì họ không chịu tìm hiểu Kinh Thánh.
Mong sao các cặp vợ chồng đừng lo lắng: vì tình yêu đích thực của chúng ta trong cuộc sống hay chết này không chỉ bảo toàn nhưng biến đổi. Hôn nhân không kết thúc với cái chết, nhưng biến đổi. Chúa chúng ta làm mất đi tất cả những hạn chế đặc trưng của sự sống trên trái đất. Tương tự như thế, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hoặc giữa bạn bè với nhau sẽ không bị quên lãng. Nhưng nói rằng hôn nhân trần thế là một kinh nghiệm tiêu cực, hiểu lầm và đau khổ. Cái chết không cắt đứt các mối liên hệ có còn là lý do để sợ hãi nữa không? Không, bởi vượt qua thời gian vào cõi đời đời, cái xấu sẽ biến mất chỉ còn cái tốt. Tình yêu hiệp nhất họ với nhau, ngay cả khi nó chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thấy phát triển đầy đủ, trong khi các khuyết điểm, hiểu lầm, đau khổ mà họ đã gây ra cho nhau sẽ tan biến.
Vậy, nói gì về những người đã lập gia đình cách hợp pháp với nhiều người như góa vợ và góa chồng rồi tái hôn, cụ thể trường hợp phái Sađốc giới thiệu với Chúa Giêsu về bảy anh em đã liên tục kết hôn với cùng một người phụ nữ. Đối với họ là bằng nhau, lặp đi lặp lại cùng một điều: đó là tình yêu đích thực và món quà mỗi cặp vợ chồng, khách quan tất cả đều tốt, Thiên Chúa sẽ không xóa nhòa nhưng hoàn tất nó ở trên trời. Trong Thiên Chúa sẽ không có sự cạnh tranh hay ghen tuông: những điều không thuộc về tình yêu đích thực, hay dưới ách thống trị do hậu quả của tội lỗi, sẽ không tồn tại ở trên trời.
Tóm lại có “một cuộc sống khác” đang chờ đợi chúng ta, như Đức Giêsu nói: “Họ là con cái Thiên Chúa”. Đối với Chúa Giêsu không có hạnh phúc lớn hơn: là con cái Thiên Chúa được chia sẻ trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa.
Sống, yêu, ca tụng, vui mừng … tất cả những động từ này sẽ đề cập đến thực tế duy nhất tồn tại ở nơi Thiên Chúa, những người cuối cùng sẽ là “tất cả trong mọi sự” ; “Bởi lòng yêu mến Người đã tiền định cho ta được phúc làm con, nhờ Ðức Giêsu Kitô, và vì Người, chiếu theo nhã ý của thánh chỉ Người,”(Ep 1, 5 ).
Lạy Chúa, “Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16). Amen.
Linh mục Antôn Nguyễn Văn Độ
====================
Suy niệm 4
Thiên Chúa Của Kẻ Sống
2Mcb 7,1-2.9-14; 2Tx 2,16-3,5; Lc 20, 27-38
Những người thuộc nhóm Sađốc chủ trương không có sự sống lại. Nhưng họ biết là Thầy Giêsu, những người Pharisêu và đa số dân chúng đều tin vào sự sống lại. Vì muốn bác bỏ niềm tin này, họ dựa vào luật Môsê, bịa ra chuyện trớ trêu về người phụ nữ có bảy đời chồng, một câu chuyện khá hấp dẫn để gài bẫy, bằng cách hỏi khó Thầy Giêsu, vừa chế giễu niềm tin vào sự sống lại và để bảo vệ chủ trương của họ: “Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ”? (Lc 20, 33).
Chất vấn thật khó xử như vậy, mà Thầy Giêsu lý giải thật minh bạch rõ ràng mọi nhẽ: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai… Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20, 34-38). Đời này người ta còn dựng vợ gả chồng, sinh con cái, tính toán làm ăn mưu sinh, còn có quy luật sinh-lão-bệnh-tử. Thầy Giêsu nói đến cảnh sống ở đời sau, khi sống lại người ta được thanh thoát như thiên thần, không ăn uống ngủ nghỉ, hoạt động về thể lý, không còn lệ thuộc vào những công lệ tự nhiên của trần gian như người đời. Thầy Giêsu chứng minh sự bất tử của linh hồn, Thầy giải thích thật hợp lý hợp tình. Tôi đang sống cuộc đời này thì cứ sống giây phút hiện tại cho thật đẹp, cần chi tìm lo biết nhiều về tương lai, có khi lại bê trễ đời hiện tại. Có câu hát rằng: “Ôi cuộc sống đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp, mùa xuân đâu chỉ có hoa thơm và nắng hồng. Cuộc đời còn có cả những nụ hôn”. Vâng, cuộc sống đời này không phải chỉ có cơm áo gạo tiền, nhưng cần có tình yêu. Và chỉ có Tình Yêu của Chúa mới lấp đầy nỗi lòng con người. Khi được no thỏa Tình Yêu thì lòng tôi hân hoan vui sướng, dù trong khó khăn đau khổ chẳng nề, sống quảng đại vị tha, khốn khó trở nên nhẹ nhàng vì có Tình Yêu. Giữa cuộc đời trần thế mà được Tình Yêu siêu nhiên nâng cao lên, đến độ biết hiến mạng sống mình vì người mình yêu, thể hiện ngay trong gia đình, nơi những người thân, những người mà tôi gặp gỡ. Như thế ngay cuộc sống đời này đã có dấu hiệu về sự sống đời sau. Nếu chúng con cảm nhận được cuộc sống tốt đẹp mai sau ngay trong đời hiện tại gắn bó với Chúa, chúng con sẽ minh chứng được rằng: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20, 38).
Én Nhỏ
 
 
 
 
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: OnIP™ (www.onip.vn - mCMS).
log